Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 103
Hôm nay: 25
Lượt truy cập: 1,434,304
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THANG 9 và 9 THÁNG NĂM 2023
Cập nhật bản tin: 10/3/2023
            

 

Tỉnh Quảng Trị thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2023 trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, chiến sự Nga-Ucraina kéo dài, dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh tăng nhẹ so với các dự báo trước đó, thương mại hàng hoá toàn cầu tiếp tục giảm, lạm phát có xu hướng giảm, điều kiện tài chính có xu hướng nới lỏng trong bối cảnh tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ…Trong nước, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, không thuận lợi nhưng nền kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, tăng trưởng kinh tế không cao nhưng các cân đối lớn được đảm bảo, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp, cung cầu hàng hoá được đảm bảo, giải ngân vốn đầu tư công được cải thiện, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện.

Tỉnh Quảng Trị, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng với quyết tâm hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 và giai đoan 2021-2025; quán triệt phương châm hành động của Chính phủ  Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ; Kết luận số 372-KL/TU ngày 06/12/2022 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 80/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Nhìn chung, kinh tế - xã hội của tỉnh trong 9 tháng năm 2023 đã đạt được những kết quả tích cực, tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn đạt khá; sản xuất nông nghiệp được mùa, sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng, hoạt động thương mại, dịch vụ phục hồi mạnh mẽ do cầu tiêu dùng tăng, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả nhất định…

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2023 tỉnh Quảng Trị đạt được những kết quả như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)

 Tổng sản phẩm trên địa bàn quý III/2023 ước tính tăng 5,02% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm 0,19%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 6,62%, đóng góp 1,95 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,62%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,58%, đóng góp 0,21 điểm phần trăm.

Tổng sản phẩm trên địa bàn 9 tháng năm 2023 ước tính tăng 6,29% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 5,61%). Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 6,09%, đóng góp 1,35 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 6,87%, đóng góp 1,83 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,99%, đóng góp 2,83 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,99%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,09% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 0,03%). Ngành nông nghiệp, sản xuất cây hàng năm  được mùa, sản lượng lương thực có hạt tăng 22,27%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 10,57%...nên tăng trưởng cao nhất 12,40%, đóng góp 1,78 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành thuỷ sản, gặp khó khăn do giá nhiên liệu tăng, thiếu lao động đi biển; dịch bệnh trên tôm nuôi…nên sản lượng thuỷ sản giảm 0,06%, nên tăng trưởng giảm 0,25%, làm giảm 0,01 điểm phần trăm. Ngành lâm nghiệp, đơn hàng xuất khẩu sản phẩm gỗ giảm mạnh, nhu cầu gỗ nguyên liệu giảm, sản lượng gỗ khai thác giảm 13,87% nên tăng trưởng giảm 9,55%, làm giảm 0,42 điểm phần trăm.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,87% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 11,21%). Ngành công nghiệp tăng 10,89%, đóng góp 1,48 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Trong ngành công nghiệp, tăng trưởng cao nhất là ngành sản xuất và phân phối điện tăng 25,44%, đóng góp 0,92 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung do có thêm dự án điện gió đi vào vận hành thương mại và các dự án điện gió, điện mặt trời vận hành năm 2021 hoạt động với công suất tốt hơn. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng chậm lại do thu hút đầu tư vào ngành này còn hạn chế, đầu năm nay các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như: dệt may, chế biến gỗ…số đơn hàng giảm mạnh nên tăng 6,56%, đóng góp 0,56 điểm phần trăm. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải rác quy mô nhỏ, tăng 5,53%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng do nguồn quặng hạn chế, công tác quản lý khai thác khoáng sản ngày càng chặt chẽ hơn nên giảm 1,94%, làm giảm 0,02 điểm phần trăm. Ngành xây dựng, do ngân hàng siết chặt tín dụng bất động sản, lãi suất cho vay ở mức cao, giá vật liệu xây dựng tăng, thị trường bất động sản trầm lắng…nên chỉ tăng 2,68%, đóng góp 0,35 điểm phần trăm.  

Khu vực dịch vụ tăng 5,99% (9 tháng năm 2022 tăng 5,88%). Các ngành dịch vụ thị trường phục hồi mạnh mẽ, nhưng các ngành dịch vụ phi thị trường tăng trưởng chậm do lương cơ sở mới tăng từ 01/7/2023. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường vào mức tăng trưởng chung: dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 15,88%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm; bán buôn, bán lẽ tăng 10,33%, đóng góp 0,99 điểm phần trăm; vận tải kho bãi tăng 6,95%, đóng góp 0,18 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,48%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm…Các ngành dịch vụ phi thị trường như: hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội, quản lý nhà nước tăng 7,70%, đóng góp 0,42 điểm phần trăm; giáo dục và đào tạo chỉ tăng 4,29%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội chỉ tăng 0,98%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm do dịch COVID-19 đã được kiểm soát…

Về cơ cấu kinh tế 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,63%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 27,75%; khu vực dịch vụ chiếm 45,61%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,01% (cơ cấu tương ứng của 9 tháng năm 2022 là: 22,14%; 26,69%; 47,16%; 4,01%).

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 

 

So với cùng kỳ năm trước (%)

Đóng góp vào tăng trưởng

 9 tháng

năm 2023

(Điểm %)

9 tháng  

năm 2022

Ước 9 tháng  

năm 2023

Tổng sản phẩm trên địa bàn

5,61

6,29

6,29

- Nông, lâm nghiệp và thủy sản

0,03

6,09

1,35

- Công nghiệp và xây dựng

11,21

6,87

1,83

- Dịch vụ

5,88

5,99

2,83

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp SP

-0,22

6,99

0,28

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Suất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng năm 2023 tăng trưởng khá. Sản xuất cây hàng năm được mùa, năng suất và sản lượng hầu hết các loại cây trồng chủ yếu đều tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi tiếp tục đà phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát. Sản xuất lâm nghiệp gặp khó khăn do đơn hàng xuất khẩu sản phẩm gỗ giảm, nhu cầu gỗ nguyên liệu giảm nên khai thác gỗ giảm mạnh. Sản xuất thuỷ sản, giá nhiên liệu tăng thu nhập ngư dân giảm sút, số chuyến biển giảm; một số tàu cá thiếu lao động đi biển; nuôi trồng thuỷ sản, tôm nuôi bị chết do dịch bệnh, thời tiết nắng nóng bất thường…nên sản lượng thuỷ sản có giảm so với cùng kỳ năm trước.

2.1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

a1. Cây hàng năm

* Tiến độ sản xuất cây hàng năm đến ngày 15/9/2023

Tính đến 15/9/2023, toàn tỉnh gieo cấy  được 50.192,9 ha lúa, giảm 0,53% so với cùng kỳ năm trước (lúa Đông Xuân 26.162 ha, tăng 0,43%; lúa Hè Thu 22.547,6 ha, giảm 1,10%; lúa Mùa 1.483,2 ha, giảm 7,82%); cây ngô gieo trồng 4.213,1 ha, giảm 6,49%; khoai lang 1.334,2 ha, giảm 7,13%; sắn 12.891 ha, tăng 0,87%; lạc 3.111,1 ha, giảm 0,99%; rau các loại 5.452,1 ha, tăng 0,65%; đậu các loại 1.555,9 ha, giảm 3,05%; cây ớt cay 418,3 ha, giảm 5,98%...Diện tích cây lúa giảm do vụ Hè Thu nắng nóng kéo dài các địa phương chuyển đổi một số diện tích gieo trồng lúa sang các loại cây trồng cạn, lúa Mùa giảm do sản xuất kém hiệu quả; diện tích ngô, lạc, đậu các loại, ớt cay giảm do vụ Hè Thu thời tiết nắng nóng kéo dài không gieo trồng được; diện tích cây khoai lang giảm mạnh do sản xuất kém hiệu quả chuyển sang trồng các loại cây khác…

Diện tích gieo trồng một số cây hàng năm chủ yếu 

             

Ước đến

 15/9/2023

 (Ha)

Ước đến 

15/9/2023 so với

cùng kỳ năm trước (%)

- Lúa

50.192,9

99,47

+ Đông Xuân

26.162,0

100,43

+ Hè Thu

22.547,6

98,90

+ Mùa

1.483,2

92,18

- Ngô

4.213,1

93,51

- Khoai lang

1.334,2

92,87

- Sắn

12.891,0

100,87

- Lạc

3.111,1

99,01

- Rau các loại

5.452,1

100,65

- Đậu các loại

1.555,9

96,95

- Cây ớt cay

418,3

94,02

* Sơ bộ kết quả sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân và Hè Thu

Vụ Đông Xuân và Hè Thu năm nay thời tiết khá thuận lợi; bên cạnh đó, nhờ áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất (bố trí khung thời vụ hợp lý; tập trung sử dụng bộ giống lúa ngắn ngày và cực ngắn như: HN6, Bắc thơm 7, Thiên ưu 8, Khang Dân 18, HC95… ); sự phối hợp chặt chẽ, sự vào cuộc của các địa phương trong chỉ đạo, tổ chức sản xuất; người dân tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất; tình hình dịch bệnh trên cây trồng xảy ra cục bộ một số vùng nhưng đã được phòng trừ kịp thời; nguồn nước tưới đảm bảo…các loại cây hàng năm sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Đây là năm cả vụ Đông Xuân và Hè Thu đều được mùa.

Về năng suất: Chín tháng năm 2023, năng suất hầu hết các loại cây hàng năm đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa ước tính đạt 57,3 tạ/ha, tăng 11 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước (lúa Đông Xuân 61,4 tạ/ha, tăng 20,3 tạ/ha; lúa Hè Thu 56,3 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha); cây ngô năng suất 34,6 tạ/ha, tăng 4,6 tạ/ha; cây khoai lang năng suất 80,3 tạ/ha, tăng 18,6 tạ/ha; cây sắn năng suất 161,7 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; cây lạc năng suất 22,6 tạ/ha, tăng 4,9 tạ/ha; rau các loại năng suất 106 tạ/ha, tăng 12,6 tạ/ha; đậu các loại năng suất 11,6 tạ/ha, tăng 2,2 tạ/ha; cây ớt cay năng suất  53,2 tạ/ha, tăng 13,9 tạ/ha…

Về sản lượng: Do năng suất tăng mạnh nên sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm đều tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt ước tính đạt 302.308,6 tấn, tăng 22,27% (+55.054,1 tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó: sản lượng lúa 287.711,8 tấn, tăng 23,04% (+53.877,8 tấn); sản lượng ngô 14.591,7 tấn, tăng 7,95% (+1.074,2 tấn). Sản lượng khoai lang 10.709,8 tấn, tăng 20,88% (+1.850,3 tấn); sản lượng sắn 208.422,9 tấn, tăng 1,67%; sản lượng lạc 7.034,2 tấn, tăng 26,31% (+1.465,2 tấn); sản lượng rau các loại 57.787,4 tấn, tăng 14,26% (+7.212,6 tấn); sản lượng đậu các loại 1.792,4 tấn, tăng 19,64% (+294,2 tấn); sản lượng ớt cay 2.226,6 tấn, tăng 27,11% (+474,9 tấn)…Tổng sản lượng lương thực có hạt 9 tháng năm 2023 đạt cao nhất từ trước đến nay, lần đầu tiên vượt ngưỡng 30 vạn tấn.

a2. Cây lâu năm

Diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định. Chín tháng năm 2023, thời tiết khá thuận lợi; tuy nhiên, do giá vật tư phân bón tăng, giá bán sản phẩm không ổn định nên khó khăn trong việc đầu tư thâm canh làm cho năng suất và sản lượng giảm.

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 31.244,6 ha, giảm 1,91% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: cây cà phê 3.740,1 ha, giảm 7,19%; cây cao su  18.791,6 ha, giảm 0,06%; cây hồ tiêu 2.162 ha, giảm 0,77%; cây cam 241 ha, tăng 5,43%; cây chuối 3.805 ha, giảm 7,37%; cây dứa 219,9 ha, giảm 13,84%...Diện tích chuối, dứa giảm do giá bán giảm, khó tiêu thụ, sản xuất kém hiệu quả nên diện tích thu hẹp; diện tích cà phê, cao su, hồ tiêu giảm do khó khăn trong việc đầu tư trồng mới…

Sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2023: cao su 17.210 tấn, giảm 6,76% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu 2.421,6 tấn, giảm 0,47%; cam 1.780 tấn, tăng 1,42%; chuối 48.835 tấn, giảm 2,80%; dứa 1.630 tấn, giảm 1,08%...Hiện nay, cây cà phê đang thời kỳ nuôi quả.

b. Chăn nuôi

Chăn nuôi tiếp tục đà phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát; tuy nhiên, hiện nay giá thức ăn chăn nuôi đang ở mức cao, giá bán sản phẩm chăn nuôi ở mức thấp nên việc tái đàn, mở rộng đàn gặp khó khăn. 

Ước tính đến 30/9/2023, đàn trâu có 21.025 con, giảm 0,39% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 60.240 con, tăng 5,96%; đàn lợn thịt có 196.800 con, tăng 24,16%; đàn gia cầm có 3.820 nghìn con, tăng 1,87%, trong đó: đàn gà 3.215 nghìn con, tăng 5,07%. Đàn trâu bò tương đối ổn định, các địa phương đang tập trung nâng cấp chất lượng đàn bò. Đàn lợn tiếp tục duy trì tốc độ phát triển theo hướng mở rộng quy mô nuôi tập trung. Đàn gia cầm phát triển khá, các trang trại, gia trại mở rộng quy mô. Hiện nay, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đang được kiểm soát, thuận lợi cho chăn nuôi phát triển; tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi ở mức cao, thu nhập của người chăn nuôi bị giảm sút; công tác tái đàn, mở rộng quy mô gặp khó khăn.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 9/2023 ước tính đạt 5.616,6 tấn, tăng 18,91% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 98,7 tấn, tăng 20,37%; thịt bò 337 tấn, tăng 7,60%; thịt lợn 3.548,8 tấn, tăng 29,99%; thịt gia cầm 1.632,1 tấn, tăng 2,13%. Sản lượng trứng gia cầm 6.171,5 nghìn quả, tăng 2,44%...Tính cả quý III/2023, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 15.715 tấn, tăng 9,73% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 213 tấn, tăng 7,20%; thịt bò 709 tấn, tăng 5,07%; thịt lợn 9.956 tấn, tăng 13,42%; thịt gia cầm 4.707,1 tấn, tăng 2,77%. Sản lượng trứng gia cầm 16.164,9 nghìn quả, tăng 4,43%...Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 45.390,2 tấn, tăng 10,57% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 607 tấn, tăng 3,20%; thịt bò 2.314 tấn, tăng 2,58%; thịt lợn 28.408 tấn, tăng 12,82%; thịt gia cầm 13.670 tấn, tăng 7%. Sản lượng trứng gia cầm 40.062,9 nghìn quả, tăng 4,53%... 

Sản phẩm chăn nuôi 

 

Ước

Quý  III/2023

 

Ước 9 tháng

năm 2023

 

So với cùng kỳ năm 2022 (%)

Quý III/2023

9 tháng năm 2023

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng (Tấn)

15.715,0

45.390,2

109,73

110,57

- Thịt trâu

213,0

607,0

107,20

103,20

- Thịt bò

709,0

2.314,0

105,07

102,58

- Thịt lợn

9.956,0

28.408,0

113,42

112,82

- Thịt gia cầm

4.707,1

13.670,0

102,77

107,00

Sản lượng trứng gia cầm (1000 quả)

16.164,9

40.062,9

104,43

104,53

2.2. Lâm  nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp 9 tháng năm 2023 gặp khó khăn. Hoạt động trồng  rừng đạt kết quả khá; tuy nhiên, tình hình xuất khẩu sản phẩm gỗ gặp khó khăn, đơn hàng giảm, nhu cầu gỗ nguyên liệu giảm nên khai thác gỗ giảm mạnh. Thời tiết nắng nóng bất thường nên diện tích rừng bị cháy tăng cao.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 9/2023 ước tính đạt 1.334,6 ha, giảm 17,42% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 114.561 m3, giảm 6,51%; sản lượng củi khai thác 16.130 ster, tăng 30,61%...Tính cả quý III/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 4.880,7 ha, tăng 8,99% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 232.500 m3, giảm 11%; sản lượng củi khai thác 12.305 ster, giảm 16,95%...Tính chung 9 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 7.930,7 ha, tăng 16,30% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 800.500 m3, giảm 13,87%; sản lượng củi khai thác 152.305 ster, tăng 1,32%...Sản lượng gỗ khai thác 9 tháng năm 2023 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước do xuất khẩu sản phẩm gỗ gặp khó khăn.

 Tình hình cháy rừng và vi phạm lâm luật: Trong tháng Chín, trên địa bàn tỉnh xảy ra 07 vụ cháy rừng trồng, diện tích rừng thiệt hại là 16,97 ha. Tính chung 9 tháng năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ cháy rừng trồng, diện tích rừng bị thiệt hại 32,67 ha, ước tính giá trị thiệt hại 1.421,21 triệu đồng. Trong 9 tháng năm 2023, phát hiện 87 vụ vi phạm lâm luật, xử lý vi phạm hành chính 65 vụ, phạt tiền 1.029,75 triệu đồng, tịch thu 58,51 m3 gỗ các loại. Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật lâm nghiệp trên địa bàn đã được phát hiện và xử lý kịp thời. 

Trồng rừng và khai thác lâm sản 

 

Ước  quý III/2023

 

Ước 9 tháng năm 2023

 

So với cùng kỳ năm 2022 (%)

Quý III/2023

9 tháng năm 2023

1. Trồng rừng tập trung (Ha)

4.880,7

7.930,7

108,99

116,30

2. Sản lượng gỗ khai thác (M3)

232.500,0

800.500,0

89,00

86,13

3. Sản lượng củi khai thác (Ster)

12.305,0

152.305,0

83,05

101,32

2.3. Thủy sản

Sản xuất thuỷ sản 9 tháng năm 2023 gặp một số khó khăn: một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do tăng cường công tác chống khai thác IUU; giá nhiên liệu tăng, thu nhập ngư dân giảm sút, số chuyến biển giảm; một số tàu cá thiếu lao động đi biển; nuôi trồng thuỷ sản, tôm nuôi bị chết do dịch bệnh, thời tiết nắng nóng bất thường...làm cho sản lượng thuỷ sản giảm.

Sản lượng thủy sản tháng 9/2023 ước tính đạt 3.357,2 tấn, giảm 7,43% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 2.516,2 tấn, giảm 3,67%; tôm 417 tấn, giảm 31,58%; thủy sản khác 424 tấn, tăng 4,69%. Tính cả quý III/2023, sản lượng thủy sản ước tính đạt 11.416 tấn, giảm 5,58% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 7.904 tấn, giảm 11,43%; tôm 1.158 tấn, giảm 37,20%; thủy sản khác 2.354 tấn, tăng 77,97%. Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản ước tính đạt 29.041 tấn, giảm 0,06% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 20.218 tấn, giảm 8,90%; tôm 3.142 tấn, giảm 15,72%; thủy sản khác 5.681 tấn, tăng 81,11%.  Cụ thể nuôi trồng và khai thác như sau:  

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 9/2023 ước tính đạt 708,2 tấn, giảm 10,01% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 300,2 tấn, tăng 61,40%; tôm 408 tấn, giảm 32,11%. Tính cả quý III/2023, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 2.493 tấn, giảm 13,61% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1.164 tấn, tăng 11,49%; tôm 1.157 tấn, giảm 36,11%. Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 6.145 tấn, giảm 4,14% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.954 tấn, tăng 5,01%; tôm 3.007 tấn, giảm 15,39%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 9/2023 ước đạt 2.649 tấn, giảm 6,71% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.216 tấn, giảm 8,66%; thủy sản khác 424 tấn, tăng 4,69%. Tính cả quý III/2023, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 8.923 tấn, giảm 3,06% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 6.740 tấn, giảm 14,47%; thủy sản khác 2.182 tấn, tăng 68,89%. Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 22.896 tấn, tăng 1,10% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 17.264 tấn, giảm 10,92%; thủy sản khác 5.497 tấn, tăng 77,72%.

Sản lượng thủy sản 

 

Ước quý III/2023

(Tấn)

Ước

9 tháng năm 2023

(Tấn)

So với cùng kỳ năm 2022 (%)

Quý III/2023

9 tháng năm 2023

Tổng sản lượng thủy sản

11.416,0

29.041,0

94,42

99,94

1. Chia theo loại thủy sản

 

 

 

 

- Cá

7.904,0

20.218,0

88,57

91,10

- Tôm

1.158,0

3.142,0

62,80

84,28

- Thủy sản khác

2.354,0

5.681,0

177,97

181,11

2. Chia theo nuôi trồng, khai thác

 

 

 

 

- Nuôi trồng

2.493,0

6.145,0

86,39

95,86

- Khai thác

8.923,0

22.896,0

96,94

101,10

Tình hình dịch bệnh nuôi trồng thuỷ sản: Từ đầu năm đến nay, dịch bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi đã xảy ra tại địa bàn 7 xã, phường của 3 huyện Triệu Phong, Vĩnh Linh, Gio Linh và TP. Đông Hà, với tổng diện tích bị bệnh 38,19 ha. Ngành chức năng đã cấp 17.247 kg hóa chất Chlorine từ nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ dập dịch góp phần ngăn chặn, hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Ngoài ra, có 315,97 ha (huyện Vĩnh Linh: 248,57 ha, huyện Triệu Phong: 67,4 ha) xảy ra hiện tượng tôm chết nhưng người nuôi không báo cáo và phối hợp lấy mẫu nên không xác định nguyên nhân.

3. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2023 gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới: giá nguyên, nhiên liệu đầu vào tăng; một số doanh nghiệp không có đơn hàng hoặc đơn hàng giảm phải ngừng hoạt động hoặc sản xuất cầm chừng…Nhưng nhìn chung vẫn tiếp tục phát triển, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động làm tăng năng lực sản xuất, các doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ ổn định tăng trưởng khá. Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2023 tăng 9,50% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 14,06%).

 Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2023 ước tính tăng 2,59% so với tháng trước và tăng 10,22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai khoáng giảm 11,34% và giảm 0,01%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,24% và tăng 4,65%; sản xuất và phân phối điện giảm 1,34% và tăng 24,27%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,25% và tăng 7,98%. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khá so với tháng trước là do một số doanh nghiệp đã có đơn hàng sau thời gian gặp khó khăn; chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước do có 2 dự án điện gió đưa vào vận hành thương mại trong tháng.

Tính cả quý III/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 8,70% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,67%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,84%; sản xuất và phân phối điện tăng 23,05%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,78%. Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao so với cùng kỳ năm trước do có 2 dự án điện gió đưa vào vận hành thương mại trong quý.

Tính chung 9 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 9,50% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 0,43%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,02%; sản xuất và phân phối điện tăng 24,12%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,63%. Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng giảm do nguồn quặng ngày càng hạn chế, công tác quản lý hoạt động khai thác khoáng sản chặt chẽ hơn; chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng khá cao do có thêm dự án điện gió mới đi vào vận hành và các dự án điện vận hành trước đây hoạt động với công suất tốt hơn.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 

                             

Tháng 9/2023 so với cùng kỳ năm trước

(%)

Quý III/2023 so với cùng kỳ năm trước (%)

9 tháng năm 2023 so với  cùng kỳ năm trước (%)

Toàn ngành công nghiệp

110,22

108,70

109,50

- Khai khoáng

99,99

100,67

99,57

- Công nghiệp chế biến, chế tạo

104,65

102,84

104,02

- Sản xuất và phân phối điện

124,27

123,05

124,12

- Cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải

107,98

103,78

105,63

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất đồ uống tăng 30,74%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 24,66%; sản xuất và phân phối điện tăng 24,12%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 21,24%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 20,33%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 18,82%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 15,52%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,57%. Ở chiều ngược lại, các ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai thác quặng kim loại giảm 0,16%; khai khoáng khác giảm 1,12%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 2,98%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 3,63%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 10,47%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 12,98%; dệt giảm 16,34%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm chủ yếu do đơn hàng giảm, khó khăn về nguyên liệu, thị trường tiêu thụ thiếu ổn định.

Một số sản phẩm chủ yếu trong 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: bia lon 20.381 nghìn lít, tăng 112,96%; gạch khối bằng bê tông 71.024 nghìn viên, tăng 102,03%; điện sản xuất 2.341 triệu Kwh, tăng 29,12%...Một số sản phẩm tăng thấp: điện thương phẩm 618 triệu Kwh, tăng 7,52%; com lê, quần áo 22.853 nghìn cái, tăng 7%; nước máy 11.944 nghìn m3, tăng 6,53%; tinh bột sắn 53.767 tấn, tăng 5,81%; nước hoa quả, tăng lực 9.281 nghìn lít, tăng 1,77%; đá xây dựng 520.278 m3, tăng 0,75%; thủy hải sản chế biến 3.669 tấn, tăng 0,38%...Một số sản phẩm giảm: dăm gỗ 388.233 tấn, giảm 3,34%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp 2.453 nghìn cái, giảm 5,15%; gạch xây dựng bằng đất sét nung 103.772 nghìn viên, giảm 5,52%; phân hóa học 29.233 tấn, giảm 6,07%; dầu nhựa thông 1.068 tấn, giảm 9,58%; xi măng 175.191 tấn, giảm 12,13%; săm dùng cho xe máy, xe đạp 4.214 nghìn cái, giảm 13,20%; tấm lợp pro xi măng 1.736 nghìn m2, giảm 19,35%; ván ép 139.048 m3, giảm 28,69%; gỗ cưa hoặc xẻ 42.242 m3, giảm 31,29%... 

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Chín tháng năm 2023 (từ 01/01-15/9), ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới và trong nước; doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; lãi suất ngân hàng ở mức cao, doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn; giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng…là những thách thức đối với hoạt động của doanh nghiệp. Số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động giảm 3,41%, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể tăng 31,37% so với cùng kỳ năm trước.

Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến 15/9/2023, toàn tỉnh có 364 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 0,27% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 3.317,4 tỷ đồng, giảm 8,02%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 9,11 tỷ đồng, giảm 7,76%. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 265 doanh nghiệp, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp giải thể là 70 doanh nghiệp, tăng 94,44%; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 117 doanh nghiệp, giảm 12,03%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…

Trong số doanh nghiệp thành lập mới 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có 17 doanh nghiệp, chiếm 4,67% và tăng 70% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp, xây dựng có 132 doanh nghiệp, chiếm 36,26% và tăng 20%; khu vực dịch vụ có 215 doanh nghiệp, chiếm 59,07% và giảm 12,24%.

5. Hoạt động dịch vụ

5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại và dịch vụ 9 tháng năm 2023 khá sôi động do kinh tế tiếp tục phục hồi, nhu cầu tiêu dùng tăng lên; nhất là hoạt động lưu trú và ăn uống. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2023 ước tính tăng 15,98% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 12,05% (9 tháng năm 2022 tăng 10,79%).

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2023 ước tính đạt 2.570,81 tỷ đồng, giảm 1,17% so với tháng trước và tăng 14,37% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu bán lẻ hàng hóa 2.032,70 tỷ đồng, giảm 2% và tăng 13,48%; doanh thu lưu trú và ăn uống 407,45 tỷ đồng, tăng 1,93% và tăng 27,01%; doanh thu du lịch lữ hành 0,35 tỷ đồng, tăng 21,28% và tăng 76,77%; doanh thu dịch vụ khác 130,31 tỷ đồng, tăng 2,48% và giảm 3,96%.

Tính cả quý III/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 7.766,21 tỷ đồng, tăng 13,70% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu bán lẻ hàng hóa 6.157,06 tỷ đồng, tăng 13,30%; doanh thu lưu trú và ăn uống 1.224,74 tỷ đồng, tăng 23,70%; doanh thu du lịch lữ hành 1,12 tỷ đồng, tăng 42,17%; doanh thu dịch vụ khác 383,29 tỷ đồng, giảm 5,48%.

Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 23.165,67 tỷ đồng, tăng 15,98% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 18.496,65 tỷ đồng, chiếm 79,85% tổng mức và tăng 14,90% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá như: ô tô con tăng 42,96%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con) tăng 24,31%; hàng may mặc tăng 17,29%; lương thực, thực phẩm tăng 15,05%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 12,62%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 10,95%...    

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 3.496,56 tỷ đồng, chiếm 15,09% tổng mức và tăng 28,13% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu dịch vụ lưu trú 214,66 tỷ đồng, tăng 121,27%; doanh thu dịch vụ ăn uống 3.281,90 tỷ đồng, tăng 24,70%. Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao do ngành du lịch phục hồi mạnh mẽ, nhất là du lịch nội địa.

Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 3,50 tỷ đồng, chiếm 0,02% tổng mức và tăng 33,69% so với cùng kỳ năm trước. Du lịch lữ hành tăng cao nhưng quy mô còn quá nhỏ bé.

Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.168,96 tỷ đồng, chiếm 5,04% tổng mức và tăng 2,26% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 

 

Ước quý III/2023

( Tỷ đồng)

Ước 9 tháng năm 2023

So với cùng kỳ năm trước (%)

Tổng mức

(Tỷ đồng)

Cơ cấu

(%)

Quý III/2023

9 tháng năm 2023

Tổng số

7.766,21

23.165,67

100,00

113,70

115,98

- Bán lẻ hàng hóa

6.157,06

18.496,65

79,85

113,30

114,90

- Lưu trú và ăn uống

1.224,74

3.496,56

15,09

123,70

128,13

- Du lịch lữ hành

1,12

3,50

0,02

142,17

133,69

- Dịch vụ khác

383,29

1.168,96

5,04

94,52

102,26

*  Khách lưu trú và du lịch lữ hành

Số lượt khách lưu trú tháng 9/2023 ước tính đạt 77.178 lượt, tăng 6,26% so với tháng trước và tăng 45,36% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú (chỉ tính khách ngũ qua đêm) 83.633 ngày khách, tăng 4,62% và tăng 170,18%. Tính chung 9 tháng năm 2023, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 629.102 lượt, tăng 92,06% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 736.364 ngày khách, tăng 199,33%.

Số lượt khách du lịch theo tour tháng 9/2023 ước tính đạt 203 lượt, tăng 29,30% so với tháng trước và tăng 56,15% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 283 ngày khách, tăng 24,67% và tăng 11,86%. Tính chung 9 tháng năm 2023, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 1.131 lượt, tăng 34,64% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 1.777 ngày khách, tăng 12,11%.

5.2. Vận tải hành khách và hàng hóa

Hoạt động vận tải 9 tháng năm 2023 tăng trưởng khá cả về vận tải hành khách và hàng hoá do các hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục phục hồi, nhất là du lịch phục hồi mạnh mẽ…nhu cầu vận tải tăng lên. Ước tính 9 tháng năm 2023, hành khách vận chuyển tăng 8,48%, hành khách luân chuyển tăng 8,27%; hàng hoá vận chuyển tăng 9,60%, hàng hoá luân chuyển tăng 8,11% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tương ứng là +8,70%, +7,24%, +5,17%, +5,73%). 

Doanh thu vận tải tháng 9/2023 ước tính đạt 180,80 tỷ đồng, tăng 0,34% so với tháng trước và tăng 10,85% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 26,83 tỷ đồng, tăng 0,38% và tăng 12,31%; doanh thu vận tải hàng hóa 125,91 tỷ đồng, tăng 0,39% và tăng 10,51%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 28,06 tỷ đồng, tăng 0,03% và tăng 10,99%. Tính cả quý III/2023, doanh thu vận tải ước tính đạt 541,20 tỷ đồng, tăng 9,84% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 80,60 tỷ đồng, tăng 9,29%; doanh thu vận tải hàng hóa 376,19 tỷ đồng, tăng 10,07%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 84,41 tỷ đồng, tăng 9,39%. Tính chung 9 tháng năm 2023, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.606,42 tỷ đồng, tăng 10,17% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 245,42 tỷ đồng, tăng 9,90%; doanh thu vận tải hàng hóa 1.109 tỷ đồng, tăng 10,53%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 252 tỷ đồng, tăng 8,85%.

Vận tải hành khách và hàng hóa 

 

 

Ước quý III/2023

 

Ước 9 tháng 2023

 

So với cùng kỳ năm trước (%)

Quý III/2023

9 tháng 2023

1. Vận tải hành khách

 

 

 

 

- Vận chuyển (Nghìn HK)

1.971,27

5.908,20

110,99

108,48

- Luân chuyển (Nghìn HK.Km)

164.876,21

502.594,77

107,55

108,27

2. Vận tải hàng hóa

 

 

 

 

- Vận chuyển (Nghìn tấn)

3.412,13

9.823,89

108,05

109,60

- Luân chuyển (Nghìn tấn.Km)

237.160,22

698.397,38

106,27

108,11

Số lượt hành khách vận chuyển tháng 9/2023 ước tính đạt 668,64 nghìn HK, tăng 0,24% so với tháng trước và tăng 10,01% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 54.773,01 nghìn HK.km, tăng 0,13% và tăng 11,85%. Tính cả quý III/2023, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.971,27 nghìn HK, tăng 10,99% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 164.876,21 nghìn HK.km, tăng 7,55%. Tính chung 9 tháng năm 2023, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 5.908,20 nghìn HK, tăng 8,48% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 502.594,77 nghìn HK.km, tăng 8,27%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 9/2023 ước tính đạt 1.115,61 nghìn tấn, tăng 0,35% so với tháng trước và tăng 14,64% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 76.326,50 nghìn tấn.km, tăng 0,18% và tăng 14,50%. Tính cả quý III/2023, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 3.412,13 nghìn tấn, tăng 8,05% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 237.160,22 nghìn tấn.km, tăng 6,27%. Tính chung 9 tháng năm 2023, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước đạt 9.823,89 nghìn tấn, tăng 9,60% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 698.397,38 nghìn tấn.km, tăng 8,11%.

5.3. Hoạt động bưu chính, viễn thông

Hoạt động bưu chính, viễn thông tăng trưởng ổn định. Các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông không ngừng đa dạng hóa các gói dịch vụ, bảo đảm an toàn thông tin, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.

Đến 31/8/2023, trên địa bàn tỉnh có 208 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 85 bưu cục cấp 1, 2, 3 và điểm phục vụ; có 114/125 xã, phường có điểm BĐ-VHX; 09 điểm phục vụ hình thức khác (06 kho bưu chính, 03 thùng thư công cộng độc lập). Có 113/125 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày (huyện đảo Cồn Cỏ chưa có). Bán kính phục vụ bình quân 2,381 km/1 điểm phục vụ; số dân được phục vụ 3.018 người/1 điểm phục vụ.

Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) là 2.722 trạm (816 trạm 2G, 759 trạm 3G, 1.147 trạm 4G).

Ước tính đến 30/9/2023, toàn tỉnh có 686.645 thuê bao điện thoại, tăng 3,25% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: có 6.500 thuê bao cố định, giảm 11,47% và 680.145 thuê bao di động, tăng 3,42%. Số thuê bao Internet hiện có là 130.100 thuê bao, tăng 10,73% so với cùng thời điểm năm trước. Mật độ thuê bao điện thoại 105,4 thuê bao/100 dân, mật độ thuê bao Internet 19,7 thuê bao/100 dân.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

1. Hoạt động ngân hàng

Chín tháng năm 2023, các tổ chức tín dụng đảm bảo cung ứng tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, lãi suất cho vay mới trên địa bàn đã được giảm về mức cơ bản hợp lý góp phần hổ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Trong 9 tháng năm 2023, doanh nghiệp gặp khó khăn do đơn hàng giảm phải dừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng; sự chững lại của kênh đầu tư bất động sản…đã tác động đến hoạt động vay vốn. Đến 31/8/2023, huy động vốn trên địa bàn tăng 7,62%; tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế giảm 0,67% so với cuối năm 2022.

Chín tháng năm 2023, Ngân hàng Trung ương đã thực hiện giảm các loại lãi suất điều hành, định hướng cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động, từ đó giảm lãi suất cho vay. Hiện nay, lãi suất cho vay mới trên địa bàn đã được giảm về mức cơ bản hợp lý, góp phần hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân.

Huy động vốn trên địa bàn đến 31/8/2023 đạt 33.815 tỷ đồng, tăng 7,62% (+2.394 tỷ đồng) so với cuối năm 2022; bao gồm: tiền gửi tiết kiệm 24.874 tỷ đồng, tăng 11,27% (+2.519 tỷ đồng); tiền gửi có kỳ hạn của các TCKT 2.994 tỷ đồng, tăng 31,19% (+712 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 5.239 tỷ đồng, giảm 12,27% (-732 tỷ đồng); huy động khác 441 tỷ đồng, tăng 10,23% (+41 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 267 tỷ đồng, giảm 35,29% (-146 tỷ đồng). Ước tính đến 30/9/2023, huy động vốn trên địa bàn đạt 33.950 tỷ đồng, tăng 8,05% (+2.530 tỷ đồng) so với cuối năm 2022.

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 31/8/2023 đạt 50.400 tỷ đồng, giảm 0,67% (-341 tỷ đồng) so với cuối năm 2022; bao gồm: dư nợ cho vay ngắn hạn 24.198 tỷ đồng, chiếm 48,01%, giảm 3,38% (-846 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 26.202 tỷ đồng, chiếm 51,99%, tăng 1,97% (+505 tỷ đồng). Ước tính tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 30/9/2023 đạt 50.550 tỷ đồng, giảm 0,38% (-191 tỷ đồng).

Nợ xấu đến 31/8/2023 là 390 tỷ đồng, chiếm 1,17% tổng dư nợ. Ước tính nợ xấu đến 30/9/2023 là 556 tỷ đồng, chiếm 1,1% tổng dư nợ.

2. Thu, chi ngân sách nhà nước

Chín tháng năm 2023, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt thấp so với dự toán và giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước; hầu hết các khoản thu lớn đều đạt thấp so với dự toán, nhất là khoản thu tiền sử dụng đất đạt rất thấp. Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo theo dự toán và tiến độ trên tinh thần chặt chẽ, tiết kiệm…Thu ngân sách trên địa bàn từ đầu năm đến 15/9/2023 đạt 61,16% dự toán và giảm 29,82% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách nhà nước địa phương bằng 74,24% dự toán và tăng 17%.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến ngày 15/9/2023 đạt 2.476,89 tỷ đồng, bằng 61,16% dự toán địa phương và giảm 29,82% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.696,83 tỷ đồng, bằng 49,91% dự toán và giảm 43,89%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 773,13 tỷ đồng, bằng 118,94% dự toán và tăng 66,04%. Trong thu nội địa, một số khoản thu lớn như: thu ngoài quốc doanh 668,77 tỷ đồng, tăng 7,33% so với cùng kỳ năm trước; thu tiền sử dụng đất 183,19 tỷ đồng, giảm 84,17%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 149,61 tỷ đồng, giảm 19,42%; thuế bảo vệ môi trường 136,15 tỷ đồng, giảm 41,91%; lệ phí trước bạ 102,22 tỷ đồng, giảm 47,94%; thuế thu nhập cá nhân 100,95 tỷ đồng, giảm 39,06%; thu phí và lệ phí 70,10 tỷ đồng, tăng 26,27%...

Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 15/9/2023 đạt 7.068,18 tỷ đồng, bằng 74,24% dự toán địa phương và tăng 17% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 638,20 tỷ đồng, bằng 45,78% dự toán và giảm 24%; chi thường xuyên 3.713,02 tỷ đồng, bằng 68,21% dự toán và tăng 16%. Trong chi thường xuyên, một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.694,05 tỷ đồng, tăng 7,66% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 860,69 tỷ đồng, tăng 2,11%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 304,04 tỷ đồng, giảm 7,37%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 281,55 tỷ đồng, giảm 10,92%; chi sự nghiệp kinh tế 274,78 tỷ đồng, giảm 10,84%...

Thu, chi ngân sách nhà nước 

 

Thực hiện đến 15/9/2023

( Tỷ đồng)

Thực hiện đến 15/9/2023 so với dự toán ĐP 2023 (%)

Thực hiện đến 15/9/2023 so với cùng kỳ năm trước (%)

1. Tổng thu NSNN trên địa bàn

2.476,89

61,16

70,18

TĐ: - Thu nội địa

1.696,83

49,91

56,11

       - Thu từ hoạt động XNK

773,13

118,94

166,04

2. Tổng chi NSNN địa phương

7.068,18

74,24

117,00

TĐ: - Chi đầu tư phát triển

638,20

45,78

76,00

       - Chi thường xuyên

3.713,02

68,21

116,00

3. Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2023 (giá hiện hành) ước tính giảm 23,94% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 giảm 8,44%), trong đó: vốn khu vực nhà nước giảm 7,55% do kế hoạch giao vốn năm 2023 thấp hơn năm 2022, vốn ODA triển khai chậm do thủ tục hành chính phức tạp, khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, vốn đầu tư từ quỹ sử dụng đất giảm mạnh…Vốn đầu tư khu vực dân cư và tư nhân giảm 28,39% do thị trường bất động sản trầm lắng, lãi suất ngân hàng ở mức cao, doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận nguồn vốn, giá vật liệu xây dựng tăng…

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý III/2023 (giá hiện hành) ước tính đạt 6.245,71 tỷ đồng, giảm 21,29% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 1.693,43 tỷ đồng, chiếm 27,11% tổng vốn và tăng 8,98%; vốn của dân cư và tư nhân 4.493,75 tỷ đồng, chiếm 71,95% và giảm 29,17%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 58,53 tỷ đồng, chiếm 0,94% và tăng 57,81%.

Tính chung 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn (giá hiện hành) ước tính đạt 15.255,79 tỷ đồng, giảm 23,94% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 3.685 tỷ đồng, chiếm 24,15% tổng vốn và giảm 7,55%; vốn của dân cư và tư nhân 11.452,25 tỷ đồng, chiếm 75,07% và giảm 28,39%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 118,54 tỷ đồng, chiếm 0,78% và tăng 50,19%.

Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư xây dựng cơ bản 12.804,78 tỷ đồng, giảm 22,99% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 1.230,76 tỷ đồng, giảm 36,65%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ 1.156,88 tỷ đồng, giảm 20,03%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 63,37 tỷ đồng, tăng 57,67%.

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý III/2023, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 997,93 tỷ đồng, tăng 8,38% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 714,16 tỷ đồng, tăng 2,94%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 257,96 tỷ đồng, tăng 22,92%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 25,81 tỷ đồng, tăng 50,32%.

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 2.126,91 tỷ đồng, bằng 52,01% kế hoạch năm 2023 và giảm 3,42% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.562,12 tỷ đồng, bằng 52,99% kế hoạch và giảm 8,50%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 512,53 tỷ đồng, bằng 50,48% kế hoạch và tăng 14,20%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 52,26 tỷ đồng, bằng 41,27% kế hoạch và tăng 13,06%. Tình hình thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng  năm 2023 đạt thấp so với kế hoạch và giảm so với cùng kỳ năm trước do khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, nguồn thu từ quỹ sử dụng đất giảm mạnh, triển khai vốn ODA gặp khó khăn do thủ tục hành chính phức tạp…

Tình hình thu hút vốn đầu tư : Từ đầu năm đến 15/9/2023, trên địa bàn tỉnh  có 36 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư/cấp GCN đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký là 3.121,8 tỷ đồng; trong đó, ngoài KCN, KKT có 33 dự án với số vốn là 1.826,2 tỷ đồng; trong KCN, KKT có 03 dự án với số vốn đăng ký là 1.295,6 tỷ đồng. 

Về tiến độ giải ngân vốn: Tình hình giải ngân vốn đầu tư trong 9 tháng năm 2023 rất chậm. Tính đến 15/9/2023, Kho bạc Nhà nước tỉnh giải ngân 1.185,6 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách nhà nước địa phương do tỉnh quản lý, chỉ đạt 38,37% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao năm 2023 (9 tháng năm 2022 giải ngân vốn đạt 37,76%).

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 

 

 

Ước quý III/2023

(Tỷ đồng)

Ước 9 tháng 2023

(Tỷ đồng)

So với cùng kỳ năm trước (%)

Quý III/2023

9 tháng 2023

Tổng số

6.245,71

15.255,79

78,71

76,06

- Vốn khu vực nhà nước

1.693,43

3.685,00

108,98

92,45

- Vốn của dân cư và tư nhân

4.493,75

11.452,25

70,83

71,61

- Vốn đầu tư trực tiếp NN

58,53

118,54

157,81

150,19

4. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 3,50% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 3,69%). Nguyên nhân chủ yếu là do giá nhóm hàng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống, đồ uống và thuốc lá, thiết bị và đồ dùng gia đình…tăng cao do nhu cầu tiêu dùng tăng sau dịch COVID-19, nguồn cung thiếu ổn định, chi phí đầu vào tăng; giá dịch vụ giáo dục tăng do tăng học phí đại học, cao đẳng theo nghị định 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ…Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại là giá xăng dầu điều chỉnh giảm theo giá nhiên liệu thế giới; giá ga giảm; giá bưu chính viễn thông giảm…

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2023 tăng 0,53% so với tháng trước, tăng 2,84% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,44% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III/2023 tăng 2,60% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 3,50% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 3,69%). Trong mức tăng 3,50% của chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước, có 8/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá tăng là: giáo dục tăng 6,71%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,21% (lương thực tăng 2,93%, thực phẩm tăng 5,95%, ăn uống ngoài gia đình tăng 8,73%); đồ uống và thuốc lá tăng 6,13%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 3,44%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,08%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,76%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,47%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,40%. Có 2/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: bưu chính viễn thông giảm 0,01%; giao thông giảm 2,89%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế giá ổn định.

 Chỉ số giá vàng tháng 9/2023 tăng 1,65% so với tháng trước, tăng 1,95% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,48% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý III/2023 tăng 0,67% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 0,78% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 18,08%).

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2023 tăng 1,57% so với tháng trước, tăng 0,41% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,67% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý III/2023 tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 2,54% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng  năm 2022 tăng 0,49%).

Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và đô la Mỹ 

 

So với cùng kỳ năm trước (%)

Tháng 9/2023

Quý III/2023

9 tháng năm 2023

1. Chỉ số giá tiêu dùng

103,44

102,60

103,50

2. Chỉ số giá vàng

102,48

100,67

100,78

3. Chỉ số giá đô la Mỹ

102,67

101,87

102,54

III.  CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh 9 tháng năm 2023 ước tính là 335.850 người, tăng 0,32% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nam 173.941 người, chiếm 51,79% và tăng 0,39%; nữ 161.909 người, chiếm 48,21% và tăng 0,24%; khu vực thành thị là 111.441 người, chiếm 33,18% và tăng 0,45%; khu vực nông thôn 224.409 người, chiếm 66,82% và tăng 0,42%.

Lao động đang làm việc 9 tháng đầu năm 2023 ước tính là 328.225 người, chiếm 97,73% lực lượng lao động của tỉnh và tăng 0,58% so với cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao động có việc làm của các khu vực kinh tế như sau: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 135.607 người, chiếm 41,31% trong tổng số lao động đang làm việc và tăng 0,59% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp - xây dựng 65.377 người, chiếm 19,92% và giảm 0,52%; khu vực dịch vụ 127.241 người, chiếm 38,77% và tăng 1,15% (cơ cấu 9 tháng năm 2022 là: 41,31%, 20,14% và 38,55%). Như vậy, tỷ trọng lao động có việc làm tăng lên ở khu vực dịch vụ và giảm xuống ở khu vực công nghiệp - xây dựng.

 Tỷ lệ thất nghiệp chung 9 tháng năm 2023 ước khoảng 2,27%, giảm 0,26 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của nam là 2,34% và của nữ là 2,20%; khu vực nông thôn là 2,37% và khu vực thành thị là 2,06%. Tỷ lệ thất nghiệp ở cả 2 khu vực thành thị và nông thôn, ở cả nam và nữ đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù tình hình việc làm có tốt hơn cùng kỳ năm trước nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn như: thị trường bất động sản đóng băng; lãi suất ngân hàng ở mức cao, doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận vốn tín dụng bất động sản…nên đầu tư xây dựng cơ bản gặp khó khăn, một bộ phận người lao động trong lĩnh vực này thiếu việc làm; một số doanh nghiệp trong các ngành dệt may, chế biến gỗ…thiếu đơn hàng xuất khẩu, phải dừng hoạt động hoặc sản xuất cầm chừng nên lao động thiếu việc làm…

Theo kết quả khảo sát đối với một số Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong quý III/2023 đã có khoảng 545 lao động nghĩ thôi việc và 1.067 lao động nghĩ giản việc do ảnh hưởng từ việc thiếu hụt đơn hàng.

Tính đến 15/9/2023, đã giải quyết việc làm cho 12.817 lượt lao động (kế hoạch năm 2023 là 12.000 lao động); trong đó: làm việc trong tỉnh 5.492 lượt lao động; làm việc ngoài tỉnh 5.361 lượt lao động; làm việc ở nước ngoài 1.964 lao động, trong đó: xuất khẩu lao động 1.941 lao động (Đài Loan 585 lao động; Nhật Bản 1.042 lao động; Hàn Quốc 304 lao động; khác 10 lao động).

Tính đến 15/9/2023, toàn tỉnh đã tuyển sinh, đào tạo cho 5.413 học viên (trong đó: Cao đẳng 07 học viên, Trung cấp 602 học viên; Sơ cấp và đào tạo thường xuyên dưới 3 tháng 4.804 học viên).

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Bước vào năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 9,14% (16.512 hộ nghèo); trong đó: tỷ lệ hộ nghèo của huyện nghèo Đakrông là 43,69% (5.175 hộ nghèo).

Đến thời điểm 15/9/2023, tổng số đối tượng người có công và thân nhân hưởng trợ cấp hàng tháng là 17.071 đối tượng, với số tiền chi trả hàng tháng 29.409 triệu đồng. Tổng số đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp hàng tháng là 47.256 đối tượng, với số tiền chi trả hàng tháng 25.072 triệu đồng.

Thực hiện Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban ngành, đoàn thể và các địa phương chủ động quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức đón Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023. Chú trọng công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn, hộ nghèo, người dân bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, đồng bào vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm mọi nhà, mọi người dân đều được vui Xuân, đón Tết…

Trong dịp tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, tỉnh Quảng Trị đã trao tặng 114.784 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác, tổng kinh phí là 57.389,5 triệu đồng. Trong đó:

+ Quà của Chủ tịch nước là 8.073,6 triệu đồng để trao tặng 26.493 suất quà cho người có công và gia đình  chính sách người có công.

+ Quà ngân sách địa phương (tỉnh/huyện/xã) là 3.781,9 triệu đồng để tặng 8.786 suất quà cho gia đình người có công, gia đình chính sách có công với cách mạng, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng chính sách khác.

+ Quà từ nguồn kinh phí xã hội hóa là 45.534 triệu đồng để trao tặng 79.505 suất quà cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Ngoài ra, tỉnh đã phân bổ 1.063,065 tấn gạo hỗ trợ cho 14.712 hộ (70.871 nhân khẩu) là nhóm hộ thuộc diện bảo trợ xã hội, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số vùng miền núi.

Nhân Kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947– 27/7/2023), tỉnh Quảng trị đã triển khai thực hiện hiệu quả các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” trên địa bàn tỉnh: Lãnh đạo tỉnh tổ chức thăm và tặng quà cho 27 gia đình chính sách người có công với cách mạng tiêu biểu trên địa bàn tỉnh; tổ chức trao tặng 24.177 suất quà của Chủ tịch nước đối với người có công với cách mạng với tổng kinh phí quà tặng là 7.350,3 triệu đồng. Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đã tổ chức thăm hỏi, trao tặng 9.254 suất quà cho người có công và thân nhân người có công với cách mạng, tổng trị giá quà tặng 5.297 triệu đồng. Toàn tỉnh đã hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa 61 nhà tình nghĩa đối với người có công với cách mạng, với tổng kinh phí hỗ trợ 2.665 triệu đồng. Trao tặng 04 sổ tiết kiệm cho người có công với cách mạng, tổng trị giá 40 triệu đồng (bình quân 10 triệu đồng/sổ).

Chín tháng năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 6,29%. Sản xuất cây hàng năm được mùa, được giá; sản lượng lương thực có hạt ước tính đạt hơn 30,2 vạn tấn, tăng 22,27% so với cùng kỳ năm trước. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn. Tính đến nay có 69/101 xã (68,3%) và 01 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM làm cho diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng từng bước đáp ứng yêu cầu sinh hoạt và sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Các ngành kinh tế tiếp tục phục hồi và phát triển; công tác an sinh xã hội được quan tâm chu đáo nên đời sống người dân ổn định, không có tình trạng thiếu đói xảy ra.

3. Giáo dục và Đào tạo

Trong 9 tháng năm 2023, ngành Giáo dục và Đào tạo tập trung triển khai các hoạt động để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm năm học 2022-2023; chủ động xây dựng các kế hoạch, giải pháp quản lý chỉ đạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học 2023-2024.

Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị diễn ra an toàn, nghiêm túc. Có 8.065 thí sinh tham gia dự thi, tỷ lệ tốt nghiệp là 96,54% (sau phúc khảo), cao hơn so năm 2022.

Toàn ngành tích cực chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất để triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới đối với lớp 4, lớp 8, lớp 11 áp dụng năm học 2023 - 2024: Tổ chức lựa chọn sách SGK; bồi dưỡng GV, CBQL sử dụng SGK và tổ chức hội thảo giới thiệu sách theo Chương trình GDPT 2018.

Tổ chức Cuộc thi Khoa học kỹ thuật học sinh trung học năm học 2022-2023  với sự tham gia của 196 thí sinh đến từ 30 trường có cấp học THPT và 9 phòng GDĐT trong toàn tỉnh; cuộc thi có 107 dự án đăng ký dự thi (cấp THPT có 87 dự án, cấp THCS có 30 dự án) ở 12 lĩnh vực, đến từ 98 tập thể và 18 cá nhân. Kết quả,  64 dự án đạt giải (gồm có 03 giải nhất, 08 giải Nhì, 26 giải Ba và 27 giải Tư). Tham dự Cuộc thi KHKT cấp quốc gia năm 2023, Đoàn Quảng Trị có 02 dự án tham gia dự thi. Kết quả đạt 01 giải Nhì và 01 giải Tư cấp quốc gia

Tham dự Cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp” quốc gia lần thứ V, năm học 2022 - 2023, Đoàn Quảng Trị có 05 dự án tham gia Cuộc thi, kết quả dự án “Thiết kế mô hình ảo Thành Cổ Quảng Trị phục vụ giáo dục và du lịch” của nhóm học sinh Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn đạt giải Nhất; tham gia Cuộc thi “An toàn giao thông cho nụ cười ngày mai” cấp THPT năm học 2022 - 2023, kết quả Đoàn Quảng Trị đạt 02 giải Nhì, 13 giải Ba, 24 giải Khuyến khích; tham gia Giao lưu “An toàn giao thông cho nụ cười trẻ thơ” cấp quốc gia năm học 2022 - 2023, kết quả đạt 01 giải Nhất.

Tổ chức thành công Lễ ra quân các đội tuyển dự thi chọn HSG quốc gia THPT năm học 2022-2023, theo đó Quảng Trị có 54 thí sinh tham gia dự thi với 9 môn học (gồm có: Toán, Tin học, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, tiếng Anh, Địa lý, Lịch sử, Vật lý). Kết quả của cuộc thi chọn HSG quốc gia THPT năm học 2022-2023, ngành GDĐT Quảng Trị đoạt 32 giải, chiếm tỷ lệ 59,25%, tăng 11 giải so với năm 2022 (09 giải Nhì, 09 giải Ba và 14 giải Khuyến khích). Có 01 thí sinh tham dự kỳ thi chọn đội tuyển quốc gia dự thi Olympic khu vực và quốc tế năm 2023 bộ môn Tin học và đạt Huy chương Đồng.

Tổ chức Kỳ thi học sinh giỏi văn hóa lớp 9 năm học 2022-2023; hội thi Giao lưu tiếng Anh cấp tiểu học năm học 2022-2023; tổ chức Hội thảo giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý, tổ chức và hoạt động các cơ sở GDMN ngoài công lập.

Tổ chức thành công Hội thi thể thao học sinh phổ thông tỉnh Quảng Trị năm học 2022 - 2023, có 877 vận động viên đăng ký tham gia thuộc 42 đoàn đến từ 9 phòng GDĐT huyện, thị xã, thành phố và 32 trường phổ thông có cấp THPT tranh tài ở 104 nội dung thuộc bộ môn Điền kinh và Bơi. Đã trao 150 giải Nhất, 191 giải Nhì và 283 giải Ba cho các nội dung.

Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia, kiểm định chất lượng giáo dục, phấn đấu trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 55%.  Trong 9 tháng năm 2023, tỉnh ban hành quyết định công nhận trường đạt chuẩn quốc gia và cấp Bằng công nhận đạt chuẩn quốc gia cho 25 đơn vị. Tính đến ngày 14/9/2023, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 195/367 (chỉ tính khối các trường công lập), đạt tỷ lệ 53,13%, trong đó: Mầm non có 97/147 trường, đạt tỷ lệ 65,99%; Tiểu học có 33/67 trường, đạt tỷ lệ 49,25%; Trung học cơ sở có 25/42 trường, đạt tỷ lệ 59,52%; Trung học phổ thông có 10/24 trường, đạt tỷ lệ 41,67%; Phổ thông có nhiều cấp học 30/87 trường, đạt tỷ lệ 34,48%.

Thực hiện tốt công tác huy động học sinh đến trường, duy trì kết quả phổ cập giáo dục - xóa mù chữ. 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS. Tính đến ngày 14/9/2023, toàn tỉnh có 02 xã Mức độ 1; 29 xã Mức độ 2; 94 xã Mức độ 3; 01 huyện đạt Mức độ 1; 04 huyện đạt Mức độ 2; 05 huyện đạt Mức độ 3. Bộ GDĐT công nhận tỉnh Quảng Trị đạt chuẩn Phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và xóa mù chữ mức độ 2.

Năm học 2023 - 2024, số lượng trường học trên địa bàn tỉnh là 398 trường ( công lập 377 trường, tư thục 21 trường), giảm 01 trường công lập so với năm học 2022 – 2023. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 39 trung tâm ngoại ngữ, tin học tư thục, 12 tổ chức kinh doanh dịch vụ tư vấn du học và 14 đơn vị tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống.

Tính đến ngày 05/9/2022, toàn ngành có 177.617 học sinh. Trong đó: Mầm non 39.814 cháu (số trẻ nhà trẻ 6.333 cháu); Tiểu học 64.256 học sinh (trong đó tuyển mới đối với lớp 1: 13.227 học sinh); THCS 46.456 học sinh (trong đó tuyển mới đối với lớp 6: 13.520 học sinh); THPT 27.091 học sinh (trong đó tuyển mới đối với lớp 10: 9.668 học sinh).

Toàn ngành hiện có 13.204 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. Trong đó: cấp mầm non 3.524 người; cấp tiểu học 3.947 người; cấp THCS 3.245 người; cấp THPT 1.815 người; khối GDTX 250 người; Trường Trưng Vương, iSchool và PTLC CĐSP Quảng Trị 292 người; Quản lý nhà nước 131 người.

4. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực  phẩm

Hiện nay, tình hình dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn tỉnh đang được kiểm soát. Trong tháng 9/2023 (Từ 15/8/2023 đến 14/9/2023) toàn tỉnh đã ghi nhận 11 ca mắc COVID-19, không có trường hợp tử vong. Tính chung 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh ghi nhận 716 ca mắc, có 01 trường hợp tử vong. Hiện còn 01 ca bệnh đang điều trị tại cơ sở y tế, không còn ca bệnh nào đang điều trị tại nhà.

Theo báo cáo của Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng trên địa bàn tỉnh có 334 ca mắc bệnh cúm; 05 ca mắc Lỵ amíp; 14 ca mắc bệnh lỵ trực trùng; 02 ca mắc quai bị; 08 ca mắc thuỷ đậu; 135 ca mắc bệnh tiêu chảy; 10 ca viêm gan vi rút; 115 ca mắc bệnh sốt xuất huyết; 42 ca tay chân miệng. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh có 3.000 ca mắc bệnh cúm, giảm 7,58% (-246 ca) so với cùng kỳ năm trước; 30 ca mắc bệnh lỵ Amip, giảm 16,67% (-06 ca); 116 ca mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 3,33% (-04 ca); 24 ca mắc quai bị, bằng 4,8 lần (+19 ca); 118 ca mắc thuỷ đậu, tăng 25,53% (+19 ca); 954 ca mắc bệnh tiêu chảy, tăng 28,40% (+211 ca); 71 ca viêm gan vi rút, tăng 91,89% (+34 ca); 01 ca sốt rét, giảm 75% (-03 ca); 489 ca mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 2,20% (-11 ca); 94 ca tay chân miệng, tăng 6,82% (+06 ca). Không có trường hợp tử vong.

Trong 9 tháng năm 2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện 23 trường hợp nhiễm mới HIV, có 06 bệnh nhân tử vong do AIDS. Tính đến nay, toàn tỉnh có 84 xã, phường, thị trấn phát hiện có người nhiễm HIV/AIDS; số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 308 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 42 bà mẹ); số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 109 người.

Trong tháng 9/2023, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào. Tính chung 9 tháng năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm (tại huyện Triệu Phong), bằng cùng kỳ năm trước; làm 48 người bị ngộ độc, không có trường hợp tử vong.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh tập trung trang trí khánh tiết, tổ chức tuyên truyền chào mừng Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Quý Mão năm 2023; Lễ hội thống nhất non sông Kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và Kỷ niệm 51 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị; Kỷ niệm 69 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ; Kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Kỷ niệm 50 năm ngày ra mắt Trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; Kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ; Chuẩn bị các điều kiện tổ chức các hoạt động kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Cuba Fidel Casto thăm vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị...

Trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, tỉnh đã tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao mừng Đảng, mừng Xuân Quý Mão năm 2023 trên tinh thần thiết thực, đầm ấm, vui tươi, an toàn, lành mạnh.

+ Tại Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hoạt động đường phố tại tuyến Phố đêm Đông Hà…thu hút hàng ngàn người dân tham gia. Đặc biệt, tổ chức thành công Chương trình nghệ thuật đặc biệt mừng Đảng, mừng Xuân Quý Mão năm 2023 với chủ đề “Mãi mãi niềm tin bên Đảng” và kết thúc chương trình là bắn pháo hoa chào đón năm mới 2023.

+ Tổ chức 36 buổi chiếu phim lưu động phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa tại huyện Hướng Hóa, Đakrông, Vĩnh Linh với hơn một vạn người xem; tổ chức 12 buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhân dân trước, trong dịp Tết tại các huyện, thị xã, thành phố; tổ chức trưng bày Báo Xuân Quý Mão năm 2023.

 + Tại các địa phương đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí đậm chất dân gian truyền thống như: Hội chợ Hoa Xuân tại các huyện, thị xã, thành phố; Hội Báo Xuân và Chợ Xuân năm 2023; tổ chức thi đấu các môn thể thao quần chúng, các môn thể thao dân tộc và các trò chơi dân gian đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia như: hội Cờ Chòi, hội Cù truyền thống; hội đua thuyền truyền thống… 

Xây dựng và biểu diễn nghệ thuật phục vụ các nhiệm vụ chính trị như: Chương trình “Nối vòng tay nhân ái” Xuân Quý Mão 2023; Chương trình nghệ thuật đặc biệt đêm giao thừa mừng Đảng mừng Xuân Quý Mão năm 2023 với chủ đề “Mãi mãi niềm tin bên Đảng”; biểu diễn văn nghệ phục vụ Gặp mặt văn nghệ sĩ đầu năm 2023, Ngày thơ Việt Nam năm 2023; tham gia biểu diễn nghệ thuật tại Vương quốc Thái Lan; Ngày hội văn hóa giáo dục đại học lần thứ 21 tại trường Đại học Ubon Ratchathani Rajabhat, Vương quốc Thái Lan…Phát động sáng tác, sưu tầm và bảo tồn các làn điệu dân ca, đặc biệt là Hò giã gạo của Quảng Trị.

Tổ chức thành công Lễ Thượng cờ "Thống nhất non sông" và phát động cuộc thi sáng tác biểu tượng “Ước nguyện Hoà bình” Quảng Trị năm 2023.

Tổ chức Hội Bài Chòi tại di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải vào tối 29/4/2023 với sự tham gia của 14 nghệ sĩ, thu hút khoảng 500 lượt khách đón xem nhân dịp kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; biểu diễn chương trình nghệ thuật với chủ đề “Khúc ca hòa bình” trong Lễ hội “Thống nhất non sông” tại kỳ đài Hiền Lương sáng 30/4/2023.

Phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức thành công Lễ hội Văn hoá - Ẩm thực Việt Nam năm 2023 tại tỉnh Quảng Trị với sự tham gia 83 gian hàng ẩm thực, hơn 500 món ăn và thức uống 3 miền Bắc - Trung - Nam, đã thu hút trên 30 ngàn lượt khách tham quan.

Tổ chức thành công Liên hoan nghệ thuật quần chúng “Rừng xanh vang tiếng Ta Lư” tỉnh Quảng Trị lần thứ V, năm 2023; Tham gia Ngày hội văn hóa các dân tộc miền Trung lần thứ IV tại tỉnh Bình Định năm 2023, Kết quả đạt 01 giải A, 04 giải B và 01 giải C.

Tổ chức thành công Giải Bơi, giải Điền kinh học sinh phổ thông tỉnh Quảng Trị năm học 2022-2023; Giải Đua thuyền truyền thống "Lễ hội Thống nhất non sông" tỉnh Quảng Trị năm 2023 - Tranh cúp Huda, với sự tham dự của gần 200 vận động viên nam, nữ đến từ 17 đội đua thuyền truyền thống nam, nữ của các huyện, thị xã, thành phố. Chuẩn bị các điều kiện tổ chức Giải Bóng chuyền nam, Đẩy gậy và Bắn nỏ Hội thi thể thao truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Trị năm 2023; Giải Cầu lông các lứa tuổi tỉnh Quảng Trị mở rộng năm 2023 – Tranh cúp Huda; xây dựng kế hoạch tham gia Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc khu vực I năm 2023.

Thể thao thành tích cao đã có nhiều tiến bộ cả về công tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện VĐV và thành tích thi đấu. Hiện nay có 87 VĐV được đào tạo, tập luyện tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tỉnh (trong đó có 45 VĐV tuyến năng khiếu, 20 VĐV tuyến trẻ và 22 VĐV tuyến tỉnh). Chín tháng năm 2023, các đội tuyển thể thao thành tích cao tham gia thi đấu 22 giải thể thao quốc gia đạt được 78 huy chương các loại (16 HCV, 30 HCB và 32 HCĐ).

Thể thao quần chúng phát triển sâu rộng trong mọi đối tượng với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2021 – 2030 với các hoạt động: Tổ chức thành công Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân và Tháng hoạt động thể dục, thể thao cho mọi người; Lễ Khai mạc hè, Ngày Olympic trẻ em và phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2023 hưởng ứng Tháng hành động vì trẻ em; phong trào Olympic quốc tế... đã thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh ở cơ sở. Ước tính đến 14/9/2023, tỷ lệ người dân tập luyện TDTT thường xuyên đạt: 37,2% dân số; tỷ lệ gia đình tập luyện TDTT đạt 27,9% tổng số hộ dân; có 855 câu lạc bộ và điểm tập TDTT; có 03 liên đoàn và hội thể thao.

Thể thao người khuyết tật đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong 9 tháng năm 2023, tham gia Giải Điền kinh người khuyết tật toàn quốc tại thành phố Hồ Chí Minh đạt 08 HCV, 07 HCB, 04 HCĐ xếp thứ 03 toàn quốc; Giải Vô địch quốc gia môn Bơi người khuyết tật năm 2023 tại thành phố Cần Thơ đạt 23 huy chương đạt (6HCV, 9HCB, 8HCĐ), xếp vị trí thứ 4 toàn quốc; tham dự Đại hội Thể thao người khuyết tật Đông Nam Á năm 2023 đạt 10 HCB và 03 HCĐ.

6. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, trong tháng 9/2023 (từ 15/8 đến 14/9), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông, giảm 6,67% (-01 vụ) so với tháng trước và tăng 7,69% (+01 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 08 người, tăng 33,33% (+02 người) so với tháng trước và bằng cùng kỳ năm trước; bị thương 08 người, giảm 33,33% (-04 người) và giảm 27,27% (-03 người). Tất cả các vụ tai nạn giao thông trong tháng Chín đều xảy ra trên đường bộ.

Tính cả quý III/2023 (Từ 15/6 đến 14/9) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 48 vụ tai nạn giao thông, tăng 9,09% (+04 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 23 người, giảm 11,54% (-03 người); bị thương 41 người, tăng 10,81% (+04 người). Tất cả các vụ tai nạn giao thông trong quý III/2023 đều xảy ra trên đường bộ.

Tính chung 9 tháng năm 2023 (Từ 15/12/2022 đến 14/9/2023) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 123 vụ tai nạn giao thông, giảm 8,21% (-11 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 59 người, giảm 23,38% (-18 người); bị thương 107 người, giảm 1,83% (-02 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông trong 9 tháng năm 2023, đường bộ xảy ra 120 vụ, làm chết 57 người, bị thương 106 người; đường sắt xảy ra 03 vụ, làm chết 02 người, bị thương 01 người.

7. Thiệt hại thiên tai, phòng chống cháy nổ và bảo vệ môi trường

Tháng 9/2023, trên địa bản tỉnh xảy ra 01 vụ mưa dông, lốc xoáy; không có thiệt hại về người và tài sản. Tính chung 9 tháng năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 08 vụ thiên tai gây thiệt hại (07 vụ  mưa dông, lốc xoáy, sét và 01 vụ mưa lũ trái mùa); làm 02 người chết và 02 người bị thương; tổng giá trị thiệt hại ước tính 76.401 triệu đồng.

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ cháy, bằng 7 lần (+12 vụ) so tháng trước và bằng 4,6 lần (+11 vụ) so với cùng kỳ năm trước; không có thiệt hại về người; thiệt hại về tài sản ước tính 889,10 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 45 vụ cháy, giảm 8,16% (-05 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm 01 người bị thương; tổng giá trị tài sản thiệt hại ước tính 4.440,5 triệu đồng, giảm 36,99%.

Trong tháng 9/2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện và xử lý 14 vụ vi phạm môi trường, tăng 16,67% (+02 vụ) so tháng trước và giảm 44% (-11 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 45,35 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm đến nay đã phát hiện và xử lý 132 vụ vi phạm môi trường, giảm 38,03% (-81 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 1.024,86 triệu đồng, giảm 23,22% (-310 triệu đồng).

► Số liệu KT-XH tháng 9 năm 2023    

   CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ


Hoạt động trong ngành
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 05/11/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2024 - 05/11/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê Quảng Trị - 28/10/2024
Công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 28/10/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 Cục Thống kê Quảng Trị - 18/10/2024
Quyết định về việc công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 11/10/2024
Quyết định về việc công khai quyết toán ngân sách năm 2023 của Cơ quan Cục Thống kê Quảng Trị - 30/08/2024
CÔNG BỐ CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 16/08/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 01/07/2024
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Điều tra 53 DT thiểu số năm 2024

HỎI ĐÁP ĐIỀU TRA KT-XH
CỦA 53 DT THIỂU SỐ

Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê
Mạng riêng của ngành Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013