Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 184
Hôm nay: 1,310
Lượt truy cập: 1,463,501
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ II VÀ 6 THÁNG NĂM 2023
Cập nhật bản tin: 7/4/2023
            

 

Năm 2023, là năm “bản lề” có ý nghĩa quan trọng cho cuộc tăng tốc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025.

Tỉnh Quảng Trị thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp và bất ổn. Lạm phát toàn cầu đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; ngân hàng Trung ương một số nền kinh tế lớn tiếp tục tăng lãi suất và sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ hơn nữa; các đối tác thương mại lớn của Việt Nam phục hồi chậm và suy giảm nhu cầu tiêu dùng; giá năng lượng thế giới tăng cao; chiến sự Nga-Ucraina kéo dài...Các tổ chức quốc tế nhận định tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 thấp hơn năm 2022 từ 0,5 đến 1,2 điểm phần trăm. 

Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra; nền kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được đảm bảo, lạm phát trong tầm kiểm soát ở mức phù hợp. Môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện đã tạo được niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và sự ủng hộ của nhân dân cả nước.

Tại Quảng Trị, 6 tháng đầu năm 2023 còn nhiều khó khăn, thách thức:  nhiều dự án trọng điểm của tỉnh do nhiều nguyên nhân khác nhau chậm được triển khai làm chậm đà phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; giá nguyên, nhiên, vật liệu tiếp tục tăng cao đã tác động tiêu cực đến hầu hết các ngành kinh tế; số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể và tạm ngừng hoạt động tăng cao  …Quán triệt phương châm hành động của Chính phủ  Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”; ngay từ đầu năm 2023, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ; Kết luận số 372-KL/TU ngày 06/12/2022 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 80/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.

Tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2023 tỉnh Quảng Trị đạt được những kết quả như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)

 Tổng sản phẩm trên địa bàn quý II/2023 ước tính tăng 6,79% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 11,85%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 3,84%; khu vực dịch vụ tăng 5,49%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,68%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng cao là do vụ Đông Xuân 2022-2023 được mùa, vụ Đông Xuân năm trước mất mùa. Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng trưởng thấp do ngành công nghiệp một số doanh nghiệp may mặc, chế biến gỗ…thiếu đơn hàng phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng; ngành xây dựng gặp khó khăn do lãi suất cho vay ở mức cao, doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận vốn tín dụng bất động sản, giá vật liệu xây dựng tăng, thị trường bất động sản đóng băng…

Tổng sản phẩm trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023 ước tính tăng 6,52% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của 6 tháng đầu năm trong 4 năm trở lại đây[1]. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 9,54%, đóng góp 2,07 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 6,18%, đóng góp 1,54 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,37%, đóng góp 2,64 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,50%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,54% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của 6 tháng đầu năm từ trước đến nay (6 tháng đầu năm 2022 giảm 4,38%). Ngành nông nghiệp, vụ Đông Xuân 2022-2023 được mùa, sản lượng lúa tăng 50,04% (vụ Đông Xuân năm 2021-2022 mất mùa); sản lượng hồ tiêu tăng 20,04%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 10,95%...nên tăng trưởng cao nhất 18,17%, đóng góp 2,49 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành thuỷ sản, gặp khó khăn do giá nhiên liệu tăng, thiếu lao động đi biển…nhưng thời tiết khá thuận lợi, ngư dân tích cực bám biển nên sản lượng thuỷ sản tăng 4,45%, nên chỉ tăng 1,53%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm. Ngành lâm nghiệp, đơn hàng xuất khẩu sản phẩm chế biến từ gỗ giảm mạnh, các doanh nghiệp chế biến gỗ phải ngừng hoạt động hoặc sản xuất cầm chừng nên sản lượng gỗ khai thác giảm 13,96% nên tăng trưởng giảm 9,79%, làm giảm 0,47 điểm phần trăm.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng trưởng thấp nhất của 6 tháng đầu năm trong 7 năm trở lại đây[2]. Ngành công nghiệp tăng 10,88%, đóng góp 1,41 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Trong ngành công nghiệp, tăng trưởng cao nhất là ngành sản xuất và phân phối điện tăng 26,04%, đóng góp 0,77 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung do các dự án điện gió, điện mặt trời hoạt động với công suất tốt hơn lúc mới vận hành. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng chậm lại do thu hút đầu tư vào ngành này còn hạn chế, đầu năm nay các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như: dệt may, chế biến gỗ…số đơn hàng giảm mạnh nên tăng 7,39%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải rác quy mô nhỏ, tăng 6,22%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng do nguồn quặng hạn chế, công tác quản lý khai thác khoáng sản ngày càng chặt chẽ hơn nên giảm 5,65%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm. Ngành xây dựng, do ngân hàng siết chặt tín dụng bất động sản, lãi suất cho vay ở mức cao, giá vật liệu xây dựng tăng, thị trường bất động sản đóng băng…nên chỉ tăng 1,11%, đóng góp 0,13 điểm phần trăm.  

Khu vực dịch vụ tăng 5,37%, thấp hơn mức tăng 5,50% của 6 tháng đầu năm 2022; các ngành dịch vụ thị trường phục hồi mạnh mẽ, nhưng các ngành dịch vụ phi thị trường tăng trưởng chậm do lương cơ sở chưa tăng. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường vào mức tăng trưởng chung: dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 16,08%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; bán buôn, bán lẽ tăng 11,32%, đóng góp 1,15 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,66%, đóng góp 0,42 điểm phần trăm; vận tải kho bãi tăng 8,43%, đóng góp 0,23 điểm phần trăm…Các ngành dịch vụ phi thị trường như: hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội, quản lý nhà nước tăng 6,66%, giáo dục đào tạo chỉ tăng 3,51%…do chưa tăng lương cơ sở cho công chức, viên chức; ngành y tế và trợ giúp xã hội giảm 7,84% do dịch COVID-19 được đẩy lùi nên chi cho y tế giảm…

Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,81%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25,81%; khu vực dịch vụ chiếm 47,17%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,21% (cơ cấu tương ứng của 6 tháng đầu năm 2022 là: 17,07%; 26,12%; 51,96%; 4,85%).

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 

 

So với cùng kỳ năm trước

(%)

Đóng góp vào tăng trưởng

 6 tháng

năm 2023

(Điểm %)

6 tháng  

năm 2022

Ước 6 tháng  

năm 2023

Tổng sản phẩm trên địa bàn

103,50

106,52

6,52

- Nông, lâm nghiệp và thủy sản

95,62

109,54

2,07

- Công nghiệp và xây dựng

106,59

106,18

1,54

- Dịch vụ

105,50

105,37

2,64

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp SP

106,11

106,50

0,27

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân năm 2022-2023 được mùa, năng suất và sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm chủ yếu đều tăng cao so với vụ Đông Xuân năm trước (vụ Đông Xuân năm 2021-2022 mất mùa). Chăn nuôi tiếp tục đà phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát; nhưng hiện nay do giá thức ăn chăn nuôi đang ở mức cao, giá bán sản phẩm chăn nuôi ở mức thấp nên việc tái đàn, mở rộng đàn có xu hướng chững lại. Sản xuất lâm nghiệp gặp khó khăn do đơn hàng xuất khẩu sản phẩm chế biến từ gỗ giảm nên khai thác gỗ giảm mạnh. Sản xuất thuỷ sản, giá nhiên liệu tăng cao khiến thu nhập ngư dân giảm sút, một số tàu cá thiếu lao động đi biển…Các địa phương tích cực vận động ngư dân vươn khơi, bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo nên sản lượng thuỷ sản có tăng so với cùng kỳ năm trước.

2.1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

a1. Cây hàng năm

* Tiến độ sản xuất cây hàng năm đến ngày 15/6/2023

Tính đến 15/6/2023, toàn tỉnh gieo cấy  được 48.771,7 ha lúa, tăng 2,83% so với cùng kỳ năm trước (lúa Đông Xuân 26.162 ha, tăng 0,43%; lúa Hè Thu 22.609,7 ha, tăng 5,77%); cây ngô gieo trồng 4.132 ha, tăng 6,58%; khoai lang 1.129,4 ha, giảm 11,65%; sắn 12.449,5 ha, tăng 1,95%; lạc 2.991,1 ha, tăng 1,37%; rau các loại 5.091,6 ha, giảm 0,99%; đậu các loại 1.248,9 ha, tăng 0,07%; cây ớt cay 372,9 ha, giảm 5,93%...Diện tích cây lúa tăng do năm nay nguồn nước tưới đảm bảo nên mở rộng thêm diện tích, nhất là lúa Hè Thu; diện tích cây khoai lang giảm mạnh do sản xuất kém hiệu quả chuyển sang trồng các loại cây khác… 

Diện tích gieo trồng một số cây hàng năm chủ yếu 

 

Ước đến

 15/6/2023

 (Ha)

Ước đến 

15/6/2023 so với

cùng kỳ năm trước (%)

- Lúa

48.771,7

102,83

+ Đông Xuân

26.162,0

100,43

+ Hè Thu

22.609,7

105,77

- Ngô

4.132,0

106,58

- Khoai lang

1.129,4

88,35

- Sắn

12.449,5

101,95

- Lạc

2.991,1

101,37

- Rau các loại

5.091,6

99,01

- Đậu các loại

1.248,9

100,07

- Cây ớt cay

372,9

94,07

* Sơ bộ kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm 2022-2023

Vụ Đông Xuân 2022-2023, đầu vụ do ảnh hưởng của nhiều đợt không khí lạnh tăng cường, mưa rét kéo dài đã làm ngập úng nhiều diện tích lúa vùng trũng huyện Hải Lăng, Triệu Phong; cuối tháng Tư xảy ra đợt mưa dông, lốc xoáy, mưa đá và gió giật mạnh đã gây đỗ ngã khoảng 3.100 ha lúa đang giai đoạn chín sữa, chín sáp; cuối vụ xảy ra trận mưa dông kèm theo lốc xoáy làm hơn 2.200 ha lúa đã chín bị đổ ngã…nhưng nhìn chung thời tiết vụ Đông Xuân khá thuận lợi. Bên cạnh đó, nhờ áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất (bố trí khung thời vụ hợp lý; tập trung sử dụng bộ giống lúa ngắn ngày và cực ngắn như: HN6, Bắc thơm 7, Thiên ưu 8, Khang Dân 18, HC95… ); sự phối hợp chặt chẽ, sự vào cuộc của các địa phương trong chỉ đạo, tổ chức sản xuất; người dân tích cực ứng dụng tiến bộ Khoa học công nghệ vào sản xuất; tình hình dịch bệnh trên cây trồng xảy ra cục bộ một số vùng nhưng đã được phòng trừ kịp thời; nguồn nước tưới đảm bảo…các loại cây hàng năm sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao hơn nhiều so với vụ Đông Xuân năm trước.

Về năng suất: Vụ Đông Xuân năm 2022-2023, năng suất hầu hết các loại cây hàng năm đều tăng mạnh so với vụ Đông Xuân năm trước (vụ Đông Xuân năm 2021-2022 mất mùa). Năng suất lúa ước tính đạt 61,4 tạ/ha, tăng 20,3 tạ/ha so với vụ Đông Xuân năm trước; cây ngô năng suất đạt 36,6 tạ/ha, tăng 5,8 tạ/ha; cây khoai lang năng suất đạt 82,7 tạ/ha, tăng 24,2 tạ/ha; cây lạc năng suất đạt 22,1 tạ/ha, tăng 4,5 tạ/ha; rau các loại năng suất đạt 104,9 tạ/ha, tăng 13,8 tạ/ha; đậu các loại năng suất đạt 12,4 tạ/ha, tăng 6,1 tạ/ha; cây ớt cay năng suất đạt 54,9 tạ/ha, tăng 15,9 tạ/ha…

Về sản lượng: Do năng suất tăng mạnh nên sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm đều tăng khá cao so với vụ Đông Xuân năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ Đông Xuân 2022-2023 ước tính đạt 172.482,9 tấn, tăng 47,37% (+55.440,2 tấn) so với vụ Đông Xuân năm trước; trong đó: sản lượng lúa 160.655,9 tấn, tăng 50,04% (+53.583,8 tấn); sản lượng ngô 11.821,9 tấn, tăng 18,60% (+1.854,3 tấn). Sản lượng khoai lang ước tính đạt 8.332,8 tấn, tăng 26,69% (+1.755,7 tấn); sản lượng lạc 6.422,6 tấn, tăng 27,84% (+1.398,5 tấn); sản lượng rau các loại 40.368,7 tấn, tăng 14,39% (+5.079,4 tấn); sản lượng đậu các loại 722,9 tấn, tăng 100,14% (+361,7 tấn); sản lượng ớt cay 2.099,1 tấn, tăng 34,11% (+533,9 tấn)…Đây là năm, vụ Đông Xuân có sản lượng lương thực có hạt và sản lượng lúa cao nhất từ trước đến nay.

a2. Cây lâu năm

Diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định. Sáu tháng đầu năm 2023, thời tiết khá thuận lợi nên sản lượng thu hoạch đạt kết quả khá, nhất là cây hồ tiêu cho sản lượng cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước.

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 31.417 ha, giảm 1,53% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: cây cà phê 3.942,8 ha, giảm 2,75%; cây cao su  18.800,7 ha, giảm 0,01%; cây hồ tiêu 2.176,4 ha, giảm 0,95%; cây cam 234,8 ha, tăng 4,08%; cây chuối 3.759 ha, giảm 10,35%; cây dứa 189,5 ha, giảm 19,43%...Diện tích chuối, dứa giảm do giá bán giảm, khó tiêu thụ; sản xuất kém hiệu quả nên diện tích thu hẹp.

Sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm 2023: cao su 9.217,3 tấn, tăng 2,31% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu 2.421,6 tấn, tăng 20,04%; cam 480 tấn, tăng 0,08%; chuối 39.330 tấn, giảm 1,87%; dứa 1.570 tấn, tăng 3,47%...Cây cà phê 6 tháng đầu năm chưa thu hoạch. Sản lượng chuối giảm chủ yếu do diện tích cho sản phẩm giảm mạnh.

b. Chăn nuôi

Chăn nuôi tiếp tục đà phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát; tuy nhiên, hiện nay giá thức ăn chăn nuôi đang ở mức cao, giá bán sản phẩm chăn nuôi ở mức thấp nên việc tái đàn, mở rộng đàn gặp khó khăn. Tình hình chăn nuôi lợn và gia cầm có xu hướng chững lại.

Ước tính đến 30/6/2023, đàn trâu có 21.247 con, giảm 1,42% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 62.043 con, tăng 9,15%; đàn lợn thịt có 188.918 con, tăng 27,22%; đàn gia cầm có 3.920 nghìn con, tăng 2,46%, trong đó: đàn gà 3.282,4 nghìn con, tăng 6,30%. Đàn trâu, bò tương đối ổn định, ngành nông nghiệp đang nghiên cứu nâng cấp các loại giống có giá trị kinh tế cao, phát triển theo hướng bền vững. Đàn lợn phục hồi nhanh, đàn gia cầm phát triển khá nhờ mô hình liên kết giữa các trang trại, các hộ chăn nuôi với các doanh nghiệp. Hiện nay, giá thức ăn chăn nuôi đang ở mức cao, giá bán sản phẩm chăn nuôi đang ở mức thấp nên tổng đàn lợn và gia cầm đang có xu hướng chững lại.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 6/2023 ước tính đạt 5.286,7 tấn, tăng 11,67% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 30,8 tấn, tăng 1,99%; thịt bò 232,2 tấn, tăng 0,30%; thịt lợn 3.161,8 tấn, tăng 9,88%; thịt gia cầm 1.861,9 tấn, tăng 33,72%. Sản lượng trứng gia cầm 2.876,4 nghìn quả, tăng 3,61%...Tính cả quý II/2023, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 14.660,1 tấn, tăng 7,70% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 197,8 tấn, tăng 1,70%; thịt bò 794,8 tấn, tăng 0,76%; thịt lợn 9.011 tấn, tăng 7,77%; thịt gia cầm 4.576,8 tấn, tăng 8,49%. Sản lượng trứng gia cầm 12.546,4 nghìn quả, tăng 5,41%... Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 29.657,2 tấn, tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 395,8 tấn, tăng 1,62%; thịt bò 1.604,8 tấn, tăng 1,50%; thịt lợn 18.452 tấn, tăng 12,50%; thịt gia cầm 8.962,9 tấn, tăng 9,37%. Sản lượng trứng gia cầm 23.987,4 nghìn quả, tăng 4,99%...

Sản phẩm chăn nuôi 

 

Ước

Quý  II/2023

 

Ước 6 tháng

năm 2023

So với cùng kỳ năm 2022 (%)

Quý II/2023

6 tháng năm 2023

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng (Tấn)

14.660,1

29.657,2

107,70

110,95

- Thịt trâu

197,8

395,8

101,70

101,62

- Thịt bò

794,8

1.604,8

100,76

101,50

- Thịt lợn

9.011,0

18.452,0

107,77

112,50

- Thịt gia cầm

4.576,8

8.962,9

108,49

109,37

Sản lượng trứng gia cầm (1000 quả)

12.546,4

23.987,4

105,41

104,99

2.2. Lâm  nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 gặp khó khăn. Hoạt động trồng  rừng đạt kết quả khá; tuy nhiên, tình hình xuất khẩu sản phẩm chế biến từ gỗ gặp khó khăn; các đơn vị chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ đơn hàng giảm phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng nên khai thác gỗ giảm mạnh.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 6/2023 ước tính đạt 1.246,3 ha, tăng 91,74% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 108.022 m3, giảm 18,17%; sản lượng củi khai thác 18.650 ster, tăng 6,57%...Tính cả quý II/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 2.777 ha, tăng 41,32% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 288.561 m3, giảm 21,89%; sản lượng củi khai thác 68.190 ster, tăng 3,09%...Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 4.285,5 ha, tăng 24,65% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 520.561 m3, giảm 13,96%; sản lượng củi khai thác 96.805 ster, tăng 2,67%...Sản lượng gỗ khai thác 6 tháng đầu năm 2023 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước do xuất khẩu sản phẩm chế biến từ gỗ gặp khó khăn.

 Tình hình cháy rừng và vi phạm lâm luật: Trong quý II và 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy rừng (Cam Lộ 02 vụ, Gio Linh 01 vụ); diện tích rừng bị cháy 7,46 ha (rừng keo của người dân). Trong 6 tháng đầu năm 2023, phát hiện 53 vụ vi phạm lâm luật, xử lý vi phạm hành chính 37 vụ, phạt tiền 879,5 triệu đồng, tịch thu 39,88 m3 gỗ các loại. Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật lâm nghiệp trên địa bàn đã được phát hiện và xử lý kịp thời.

Trồng rừng và khai thác lâm sản 

 

Ước  quý II/2023

 

Ước 6 tháng năm 2023

 

So với cùng kỳ năm 2022 (%)

Quý II/2023

6 tháng năm 2023

1. Trồng rừng tập trung (Ha)

2.777,0

4.285,5

141,32

124,65

2. Sản lượng gỗ khai thác (M3)

288.561,0

520.561,0

78,11

86,04

3. Sản lượng củi khai thác (Ster)

68.190,0

96.805,0

103,09

102,67

2.3. Thủy sản

Sản xuất thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2023 gặp một số khó khăn: một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do các ngành chức năng tăng cường công tác chống khai thác IUU; giá nhiên liệu tăng cao khiến thu nhập ngư dân giảm sút, một số tàu cá thiếu lao động đi biển...Tuy nhiên, thời tiết thuận lợi; các địa phương tích cực vận động ngư dân vươn khơi, bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo nên sản lượng thuỷ sản có tăng so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng thủy sản tháng 6/2023 ước tính đạt 2.956,4 tấn, giảm 1,78% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 1.896 tấn, giảm 10,33%; tôm 277 tấn, tăng 27,68%; thủy sản khác 783,4 tấn, tăng 15,46%. Tính cả quý II/2023, sản lượng thủy sản ước tính đạt 10.037,8 tấn, tăng 4,81% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 5.371,4 tấn, giảm 30,96%; tôm 646,2 tấn, tăng 7,94%; thủy sản khác 4.020,2 tấn, tăng 235,41%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thủy sản ước tính đạt 17.794 tấn, tăng 4,45% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 11.008,3 tấn, giảm 17,91%; tôm 1.949,5 tấn, tăng 4,01%; thủy sản khác 4.836,2 tấn, tăng 176,18%.  Cụ thể nuôi trồng và khai thác như sau:  

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 6/2023 ước tính đạt 610,4 tấn, tăng 26,92% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 245 tấn, giảm 10,91%; tôm 265 tấn, tăng 28,67%. Tính cả quý II/2023, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 1.184,3 tấn, tăng 12,32% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 486,8 tấn, giảm 9,16%; tôm 592,5 tấn, tăng 15,08%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 3.754,5 tấn, tăng 6,77% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1.790,3 tấn, tăng 1,19%; tôm 1.850,5 tấn, tăng 6,66%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 6/2023 ước tính đạt 2.346 tấn, giảm 7,24% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1.651 tấn, giảm 10,25%; thủy sản khác 683 tấn, tăng 0,66%. Tính cả quý II/2023, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 8.853,5 tấn, tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 4.884,6 tấn, giảm 32,57%; thủy sản khác 3.915,2 tấn, tăng 227,63%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 14.039,5 tấn, tăng 3,85% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 9.218 tấn, giảm 20,81%; thủy sản khác 4.722,5 tấn, tăng 171,60%.

Sản lượng thủy sản 

 

Ước quý II/2023

(Tấn)

Ước

6 tháng năm 2023

(Tấn)

So với cùng kỳ năm 2022 (%)

Quý II/2023

6 tháng năm 2023

Tổng sản lượng thủy sản

10.037,8

17.794,0

104,81

104,45

1. Chia theo loại thủy sản

 

 

 

 

- Cá

5.371,4

11.008,3

69,04

82,09

- Tôm

646,2

1.949,5

107,94

104,01

- Thủy sản khác

4.020,2

4.836,2

335,41

276,18

2. Chia theo nuôi trồng, khai thác

 

 

 

 

- Nuôi trồng

1.184,3

3.754,5

112,32

106,77

- Khai thác

8.853,5

14.039,5

103,88

103,85

Tình hình dịch bệnh nuôi trồng thuỷ sản: Từ đầu năm đến nay, dịch bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi đã xảy ra tại địa bàn 5 xã, phường của  huyện Triệu Phong, Vĩnh Linh và TP. Đông Hà, với tổng diện tích bị bệnh 6,81 ha. Ngành chức năng đã kịp thời cấp 2.534 kg hóa chất Chlorine từ nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ dập dịch góp phần ngăn chặn, hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.

3. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 gặp một số khó khăn: giá nguyên, nhiên liệu đầu vào và phí vận tải tăng làm tăng áp lực lên giá thành sản xuất; một số doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu như: dệt may, chế biến gỗ, sản xuất săm lốp xe máy, xe đạp…không có đơn hàng hoặc đơn hàng giảm phải ngừng hoạt động hoặc sản xuất cầm chừng…Nhưng nhìn chung vẫn tiếp tục phục hồi và phát triển, một số doanh nghiệp mới đi vào hoạt động làm tăng năng lực sản xuất, các doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ ổn định tăng trưởng khá. Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 10,16% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2022 tăng 9,11%).

 Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6/2023 ước tính tăng 14,33% so với tháng trước và tăng 10,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,39% và tăng 15,10%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,33% và tăng 9,12%; sản xuất và phân phối điện tăng 20,91% và tăng 14,77%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,41% và tăng 0,18%. Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng khá cao so với tháng trước  do có 2 dự án điện gió đưa vào vận hành thương mại trong tháng; chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khá so với tháng trước là do một số doanh nghiệp chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm từ cao su, sản xuất giường tủ bàn ghế…đã có đơn hàng sau thời gian gặp khó khăn.

Tính cả quý II/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 7,79% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 4,18%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,04%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,57%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,83%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 10,16% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 0,78%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,30%; sản xuất và phân phối điện tăng 24%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,65%. Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng giảm so với cùng kỳ năm trước do công tác quản lý hoạt động khai thác khoáng sản ngày càng chặt chẽ hơn; chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng khá cao do các dự án điện gió đưa vào vận hành cuối năm 2021 ngày càng hoạt động với công suất tốt hơn.

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất đồ uống tăng 36,25%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 25,92%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 24,11%; sản xuất và phân phối điện tăng 24%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 18,65%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 17,53%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 15,68%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 14,34%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 14,09%. Ở chiều ngược lại, các ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai thác quặng kim loại giảm 1,94%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 12,08%; dệt giảm 12,91%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 13,68%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm chủ yếu do đơn hàng xuất khẩu giảm, tiêu thụ gặp khó khăn.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 

 

Tháng 6/2023 so với cùng kỳ năm trước

(%)

Quý II/2023 so với cùng kỳ năm trước (%)

6 tháng năm 2023 so với  cùng kỳ năm trước (%)

Toàn ngành công nghiệp

110,87

107,79

110,16

- Khai khoáng

115,10

104,18

99,22

- Công nghiệp chế biến, chế tạo

109,12

106,04

105,30

- Sản xuất và phân phối điện

114,77

112,57

124,00

- Cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải

100,18

109,83

106,65

Một số sản phẩm chủ yếu trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: bia lon 13.851 nghìn lít, tăng 149,23%; thủy hải sản chế biến 2.490 tấn, tăng 115,58%; gạch khối bằng bê tông 45.126 nghìn viên, tăng 96,59%; điện sản xuất 1.541 triệu Kwh, tăng 29,69%...Một số sản phẩm tăng thấp: dầu nhựa thông 797 tấn, tăng 13,69%; điện thương phẩm 383 triệu Kwh, tăng 9,15%; quần áo 15.898 nghìn cái, tăng 8,80%; nước máy 7.686 nghìn m3, tăng 7,90%; tinh bột sắn 37.132 tấn, tăng 6,24%; đá xây dựng 347.147 m3, tăng 3,99%; gạch xây dựng bằng đất sét nung 71.375 nghìn viên, tăng 2,34%; phân hóa học 23.439 tấn, tăng 1,23%...Một số sản phẩm giảm: lốp dùng cho xe máy, xe đạp 1.585 nghìn cái, giảm 5,58%; nước hoa quả, tăng lực 5.311 nghìn lít, giảm 6,78%; dăm gỗ 221.249 tấn, giảm 6,95%; xi măng 118.462 tấn, giảm 9,19%; tấm lợp pro xi măng 1.269 nghìn m2, giảm 14,05%; gỗ cưa hoặc xẻ 31.169 m3, giảm 22,80%; săm dùng cho xe máy, xe đạp 2.781 nghìn cái, giảm 22,85%; ván ép 101.866 m3, giảm 26,99%...

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Sáu tháng đầu năm 2023 (từ 01/01-15/6), nền kinh tế tiếp tục phục hồi nhưng doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; lãi suất ngân hàng ở mức cao, doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn; giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng…là những thách thức đối với hoạt động của doanh nghiệp; trong điều kiện doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ lại càng khó khăn hơn. Số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động giảm 2,23%, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể tăng 19,44% so với cùng kỳ năm trước.

Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến 15/6/2023, toàn tỉnh có 252 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 0,40% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 2.273,6 tỷ đồng, giảm 8,13%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 9,02 tỷ đồng, giảm 8,49%. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 223 doanh nghiệp, tăng 17,37% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp giải thể là 35 doanh nghiệp, tăng 34,62%; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 100 doanh nghiệp, giảm 8,26%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…

Trong số doanh nghiệp thành lập mới 6 tháng đầu năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có 06 doanh nghiệp, chiếm 2,38% và giảm 40% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp, xây dựng có 88 doanh nghiệp, chiếm 34,92% và tăng 18,92%; khu vực dịch vụ có 167 doanh nghiệp, chiếm 62,70% và giảm 5,39%.

5. Hoạt động dịch vụ

5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại và dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục phục hồi mạnh mẽ do kinh tế phục hồi và phát triển, nhu cầu tiêu dùng tăng lên. Hàng hoá trên thị trường dồi dào, phong phú và đa dạng; tuy nhiên, do giá nguyên, nhiên, vật liệu trên thế giới tăng tạo áp lực lên giá cả hàng hoá trong nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 tăng 17,43% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 12,96% (6 tháng đầu năm 2022 tăng 7,81%).

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6/2023 ước tính đạt 2.619,08 tỷ đồng, giảm 1,62% so với tháng trước và tăng 15,90% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu bán lẻ hàng hóa 2.101,10 tỷ đồng, giảm 1,66% và tăng 16,16%; doanh thu lưu trú và ăn uống 394,11 tỷ đồng, giảm 0,29% và tăng 34,88%; doanh thu du lịch lữ hành 0,38 tỷ đồng, giảm 50,54% và tăng 80,95%; doanh thu dịch vụ khác 123,49 tỷ đồng, giảm 4,71% và tăng 6,04%.

Tính cả quý II/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 8.017,49 tỷ đồng, tăng 17,09% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu bán lẻ hàng hóa 6.415,04 tỷ đồng, tăng 15,12%; doanh thu lưu trú và ăn uống 1.209,06 tỷ đồng, tăng 35,86%; doanh thu du lịch lữ hành 2,17 tỷ đồng, tăng 18,81%; doanh thu dịch vụ khác 391,22 tỷ đồng, tăng 2,13%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 15.433,26 tỷ đồng, tăng 17,43% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 12.387,58 tỷ đồng, chiếm 80,27% tổng mức và tăng 16,16% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá như: ô tô các loại tăng 35,26%; hàng may mặc tăng 20,42%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 20,01%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 16,64%; lương thực, thực phẩm tăng 14,60%...    

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 2.261,05 tỷ đồng, chiếm 14,65% tổng mức và tăng 30,04% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu dịch vụ lưu trú 122,94 tỷ đồng, tăng 118,29%; doanh thu dịch vụ ăn uống 2.138,11 tỷ đồng, tăng 27,09%. Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao do ngành du lịch phục hồi mạnh mẽ sau dịch COVID-19, nhất là du lịch nội địa.

Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 2,37 tỷ đồng, chiếm 0,02% tổng mức và tăng 29,69% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 782,26 tỷ đồng, chiếm 5,06% tổng mức và tăng 6,04% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

 

Ước quý II/2023

( Tỷ đồng)

Ước 6 tháng năm 2023

So với cùng kỳ năm trước (%)

Tổng mức

(Tỷ đồng)

Cơ cấu

(%)

Quý II/2023

6 tháng năm 2023

Tổng số

8.017,49

15.433,26

100,00

117,09

117,43

- Bán lẻ hàng hóa

6.415,04

12.387,58

80,27

115,12

116,16

- Lưu trú và ăn uống

1.209,06

2.261,05

14,65

135,86

130,04

- Du lịch lữ hành

2,17

2,37

0,02

118,81

129,69

- Dịch vụ khác

391,22

782,26

5,06

102,13

106,04

*  Khách lưu trú và du lịch lữ hành

Số lượt khách lưu trú tháng 6/2023 ước tính đạt 74.659 lượt, tăng 0,10% so với tháng trước và tăng 60,44% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú (chỉ tính khách ngũ qua đêm) 82.418 ngày khách, giảm 0,50% và tăng 132,71%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 435.146 lượt, tăng 118,91% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 440.554 ngày khách, tăng 222,35%.

Số lượt khách du lịch theo tour tháng 6/2023 ước tính đạt 135 lượt, giảm 16,67% so với tháng trước và tăng 145,45% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 245 ngày khách, giảm 30,79% và tăng 94,44%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 713 lượt, tăng 46,71% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 1.259 ngày khách, tăng 43,23%.

5.2. Vận tải hành khách và hàng hóa

Hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng khá cả về vận tải hành khách và hàng hoá so với cùng kỳ năm trước do các hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục phục hồi, nhất là du lịch phục hồi mạnh mẽ; thời tiết thuận lợi…nhu cầu vận tải tăng lên. Ước tính 6 tháng đầu năm 2023, hành khách vận chuyển tăng 7,30%, hành khách luân chuyển tăng 8,10%; hàng hoá vận chuyển tăng 9,96%, hàng hoá luân chuyển tăng 8,96% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2022 tương ứng là +3,37%, +3,06%, +4,14%, +4,33%). 

Doanh thu vận tải tháng 6/2023 ước tính đạt 184,67 tỷ đồng, tăng 1,45% so với tháng trước và tăng 13,94% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 26,45 tỷ đồng, tăng 0,26% và tăng 10,73%; doanh thu vận tải hàng hóa 130,29 tỷ đồng, tăng 1,86% và tăng 15,40%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 27,93 tỷ đồng, tăng 0,69% và tăng 10,45%. Tính cả quý II/2023, doanh thu vận tải ước tính đạt 544,75 tỷ đồng, tăng 12,81% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 79,26 tỷ đồng, tăng 9,27%; doanh thu vận tải hàng hóa 381,62 tỷ đồng, tăng 14,53%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 83,87 tỷ đồng, tăng 8,73%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.072,52 tỷ đồng, tăng 11,09% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 164,28 tỷ đồng, tăng 9,84%; doanh thu vận tải hàng hóa 740,55 tỷ đồng, tăng 11,94%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 167,69 tỷ đồng, tăng 8,65%. 

Vận tải hành khách và hàng hóa 

 

 

Ước quý II/2023

 

Ước 6 tháng 2023

 

So với cùng kỳ năm trước (%)

Quý II/2023

6 tháng 2023

1. Vận tải hành khách

 

 

 

 

- Vận chuyển (Nghìn HK)

1.959,9

3.938,1

108,46

107,30

- Luân chuyển (Nghìn HK.Km)

164.372,5

339.450,8

109,65

108,10

2. Vận tải hàng hóa

 

 

 

 

- Vận chuyển (Nghìn tấn)

3.325,7

6.384,0

112,46

109,96

- Luân chuyển (Nghìn tấn.Km)

236.696,5

460.695,6

108,12

108,96

Số lượt hành khách vận chuyển tháng 6/2023 ước tính đạt 649,1 nghìn HK, tăng 0,86% so với tháng trước và tăng 10,91% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 57.651,6 nghìn HK.km, tăng 0,19% và tăng 10,49%. Tính cả quý II/2023, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.959,9 nghìn HK, tăng 8,46% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 164.372,5 nghìn HK.km, tăng 9,65%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 3.938,1 nghìn HK, tăng 7,30% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 339.450,8 nghìn HK.km, tăng 8,10%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 6/2023 ước tính đạt 1.172 nghìn tấn, tăng 0,75% so với tháng trước và tăng 7,79% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 84.139,6 nghìn tấn.km, tăng 1,28% và tăng 6,10%. Tính cả quý II/2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 3.325,7 nghìn tấn, tăng 12,46% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 236.696,5 nghìn tấn.km, tăng 8,12%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước đạt 6.384 nghìn tấn, tăng 9,96% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 460.695,6 nghìn tấn.km, tăng 8,96%.

5.3. Hoạt động bưu chính, viễn thông

Hoạt động bưu chính, viễn thông phát triển ổn định. Các công ty bưu chính, viễn thông không ngừng đa dạng hóa các gói dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng.

Đến 31/5/2023, trên địa bàn tỉnh có 208 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 85 bưu cục cấp 1, 2, 3 và điểm phục vụ; có 114/125 xã, phường có điểm BĐ-VHX; 09 điểm phục vụ hình thức khác (06 kho bưu chính, 03 thùng thư công cộng độc lập). Có 113/125 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày (huyện đảo Cồn Cỏ chưa có). Bán kính phục vụ bình quân 2,381 km/1 điểm phục vụ; số dân được phục vụ 3.018 người/1 điểm phục vụ.

Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) là 2.722 trạm (816 trạm 2G, 759 trạm 3G, 1.147 trạm 4G).

Ước tính đến 30/6/2023, toàn tỉnh có 686.289 thuê bao điện thoại, tăng 2,36% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: có 6.700 thuê bao cố định, giảm 12,27% và 679.589 thuê bao di động, tăng 2,53%. Số thuê bao Internet hiện có là 125.005 thuê bao, tăng 9,50% so với cùng thời điểm năm trước. Mật độ thuê bao điện thoại 105,3 thuê bao/100 dân, mật độ thuê bao Internet 19 thuê bao/100 dân.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

1. Hoạt động ngân hàng

Trong 6 tháng đầu năm 2023, mặt bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm ở mức cao; các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất động sản gặp khó khăn nên khách hàng chọn kênh gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất cao. Các tổ chức tín dụng đảm bảo cung ứng tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh; tuy nhiên, do lãi suất cho vay ở mức cao, doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn do giá đầu vào tăng, thiếu đơn hàng tiêu thụ sản phẩm phải dừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng; sự chững lại của kênh đầu tư bất động sản…đã tác động đến hoạt động vay vốn. Đến 31/5/2023, huy động vốn trên địa bàn tăng 5,05%, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế giảm 1,53% so với cuối năm 2022.

Sáu tháng đầu năm 2023, Ngân hàng Trung ương đã thực hiện giảm các loại lãi suất điều hành 3 lần, định hướng cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động, từ đó giảm lãi suất cho vay. Hiện nay, lãi suất cho vay mới trên địa bàn đã được giảm về mức cơ bản hợp lý, góp phần hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nhóm ngân hàng thương mại nhà nước: lãi suất cho vay ngắn hạn SXKD 5-9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn 8,5-11%/năm; cho vay tiêu dùng 8,5-11%/năm. Đối với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần ngoài nhà nước: lãi suất cho vay ngắn hạn SXKD 8-13%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn 10-13%/năm; cho vay tiêu dùng 9-13%/năm.

Huy động vốn trên địa bàn đến 31/5/2023 đạt 33.008 tỷ đồng, tăng 5,05% (+1.586 tỷ đồng) so với cuối năm 2022; bao gồm: tiền gửi tiết kiệm 24.117 tỷ đồng, tăng 7,89% (+1.763 tỷ đồng); tiền gửi có kỳ hạn của các TCKT 2.969 tỷ đồng, tăng 30,08% (+686 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 5.083 tỷ đồng, giảm 14,90% (-890 tỷ đồng); huy động khác 440 tỷ đồng, tăng 10,07% (+40 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 399 tỷ đồng, giảm 3,20% (-13 tỷ đồng). Ước tính đến 30/6/2023, huy động vốn trên địa bàn đạt 33.307 tỷ đồng, tăng 6% (+1.885 tỷ đồng) so với cuối năm 2022.

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 31/5/2023 đạt 49.966 tỷ đồng, giảm 1,53% (-774 tỷ đồng) so với cuối năm 2022; bao gồm: dư nợ cho vay ngắn hạn 24.089 tỷ đồng, chiếm 48,21%, giảm 3,81% (-955 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 25.877 tỷ đồng, chiếm 51,79%, tăng 0,70% (+181 tỷ đồng). Ước tính tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 30/6/2023 đạt 48.700 tỷ đồng, giảm 1% (-492 tỷ đồng).

Nợ xấu đến 31/5/2023 là 351 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng dư nợ. Ước tính nợ xấu đến 30/6/2023 là 400 tỷ đồng, chiếm 0,8% tổng dư nợ.

2. Thu, chi ngân sách nhà nước

Sáu tháng đầu năm 2023, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt thấp so với dự toán và giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước; hầu hết các khoản thu đều đạt thấp so với dự toán, nhất là các khoản thu về đất đạt rất thấp. Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và quản lý nhà nước trên tinh thần chặt chẽ, tiết kiệm…Thu ngân sách trên địa bàn từ đầu năm đến 18/6/2023 đạt 39,34% dự toán và giảm 40,70% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách nhà nước địa phương bằng 50,69% dự toán và tăng 20,34%.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến ngày 18/6/2023 đạt 1.593,17 tỷ đồng, bằng 39,34% dự toán địa phương và giảm 40,70% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.089,75 tỷ đồng, bằng 32,05% dự toán và giảm 54%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 498,46 tỷ đồng, bằng 76,69% dự toán và tăng 75,06%. Trong thu nội địa, một số khoản thu lớn như: thu ngoài quốc doanh 449,73 tỷ đồng, tăng 4,33% so với cùng kỳ năm trước; các khoản thu về nhà, đất 116,76 tỷ đồng, giảm 89,78%; thu phí, lệ phí 111,13 tỷ đồng, giảm 36,33%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 98,31 tỷ đồng, giảm 23,09%; thuế bảo vệ môi trường 84,80 tỷ đồng, giảm 49,43%; thuế thu nhập cá nhân 80,15 tỷ đồng, giảm 38,11%...

Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/6/2023 đạt 4.825,97 tỷ đồng, bằng 50,69% dự toán địa phương và tăng 20,34% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 299,49 tỷ đồng, bằng 21,48% dự toán và giảm 38,49% so với cùng kỳ năm trước; chi thường xuyên 2.312,02 tỷ đồng, bằng 42,47% dự toán và giảm 1,71%. Trong chi thường xuyên, một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.090,93 tỷ đồng, tăng 5,06% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 548,88 tỷ đồng, giảm 0,39%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 181,56 tỷ đồng, giảm 18,80%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 171,03 tỷ đồng, giảm 15,15%; chi sự nghiệp kinh tế 151,52 tỷ đồng, giảm 15,78%...

Thu, chi ngân sách nhà nước 

 

Thực hiện đến 18/6/2023

( Tỷ đồng)

Thực hiện đến 18/6/2023 so với dự toán ĐP 2023 (%)

Thực hiện đến 18/6/2023 so với cùng kỳ năm trước (%)

1. Tổng thu NSNN trên địa bàn

1.593,17

39,34

59,30

TĐ: - Thu nội địa

1.089,75

32,05

46,00

       - Thu từ hoạt động XNK

498,46

76,69

175,06

2. Tổng chi NSNN địa phương

4.825,97

50,69

120,34

TĐ: - Chi đầu tư phát triển

299,49

21,48

61,51

       - Chi thường xuyên

2.312,02

42,47

98,29

3. Đầu tư và xây dựng

3.1. Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023 (giá hiện hành) ước tính giảm 27,62% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2022 giảm 5,12%), trong đó: vốn khu vực nhà nước giảm 17,16% do kế hoạch giao vốn năm 2023 thấp hơn năm 2022, vốn ODA triển khai chậm do thủ tục hành chính phức tạp, khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, vốn đầu tư từ quỹ sử dụng đất giảm mạnh…Vốn đầu tư khu vực dân cư và tư nhân giảm 30,58% do thị trường bất động sản đóng băng, lãi suất ngân hàng ở mức cao, doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận nguồn vốn, giá vật liệu xây dựng tăng, nhiều dự án động lực của tỉnh chậm được triển khai…

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý II/2023 (giá hiện hành) ước tính đạt 4.651,74 tỷ đồng, giảm 33,56% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 1.289,16 tỷ đồng, chiếm 27,71% tổng vốn và giảm 12,21%; vốn của dân cư và tư nhân 3.334,64 tỷ đồng, chiếm 71,69% và giảm 39,31%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 27,94 tỷ đồng, chiếm 0,60% và giảm 27,87%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn (giá hiện hành) ước tính đạt 8.773,48 tỷ đồng, giảm 27,62% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 2.014,62 tỷ đồng, chiếm 22,96% tổng vốn và giảm 17,16%; vốn của dân cư và tư nhân 6.697,49 tỷ đồng, chiếm 76,34% và giảm 30,58%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 61,37 tỷ đồng, chiếm 0,70% và tăng 46,68%.

Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư xây dựng cơ bản 6.807,55 tỷ đồng, giảm 30,64% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 959,99 tỷ đồng, giảm 30%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ 954,28 tỷ đồng, tăng 5,56%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 51,66 tỷ đồng, tăng 61,16%000.

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý II/2023, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 754,88 tỷ đồng, giảm 3,77% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 555,42 tỷ đồng, giảm 8,98%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 181,16 tỷ đồng, tăng 18,28%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 18,30 tỷ đồng, giảm 13,29%.

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 6 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.136,98 tỷ đồng, bằng 27,80% kế hoạch năm 2023 và giảm 11,28% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 858,07 tỷ đồng, bằng 29,11% kế hoạch và giảm 15,34%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 255,01 tỷ đồng, bằng 25,12% kế hoạch và tăng 6,73%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 23,90 tỷ đồng, bằng 18,87% kế hoạch và giảm 17,76%. Tình hình thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 6 tháng đầu năm 2023 đạt thấp so với kế hoạch và giảm so với cùng kỳ năm trước do khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, nguồn thu từ quỹ sử dụng đất giảm mạnh, triển khai vốn ODA gặp khó khăn do thủ tục hành chính phức tạp…

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 

 

 

Ước quý II/2023

(Tỷ đồng)

Ước 6 tháng 2023

(Tỷ đồng)

So với cùng kỳ năm trước (%)

Quý II/2023

6 tháng 2023

Tổng số

4.651,74

8.773,48

66,44

72,38

- Vốn khu vực nhà nước

1.289,16

2.014,62

87,79

82,84

- Vốn của dân cư và tư nhân

3.334,64

6.697,49

60,69

69,42

- Vốn đầu tư trực tiếp NN

27,94

61,37

72,13

146,68

Tình hình thu hút vốn đầu tư: Từ đầu năm đến 15/6/2023, trên địa bàn tỉnh  có 22 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư/cấp GCN đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký là 2.887,84 tỷ đồng; trong đó: Ngoài KCN, KKT có 19 dự án với số vốn là 1.592,27 tỷ đồng; Trong KCN, KKT có 03 dự án với số vốn đăng ký là 1.295,57 tỷ đồng. 

Vốn FDI: Trong 6 tháng đầu năm 2023, không có dự án FDI đăng ký đầu tư mới. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 19 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 2.535,586 triệu USD; trong đó: có 14 dự án hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký là 100,645 triệu USD, 05 dự án đang triển khai xây dựng với tổng số vốn đăng ký là 2.433,94 triệu USD.  Ước tính vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài 6 tháng đầu năm 2023 là 2,61 triệu USD, tăng 43,41% so với cùng kỳ năm trước.

Về tiến độ giải ngân vốn: Tình hình giải ngân vốn đầu tư trong 6 tháng đầu năm 2023 rất chậm. Tính đến 15/6/2023, Kho bạc Nhà nước tỉnh giải ngân 494,7 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách nhà nước địa phương do tỉnh quản lý, chỉ đạt 16,01% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao năm 2023 (3.089,745 tỷ đồng).

3.2. Xây dựng

Hoạt động xây dựng 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng thấp do tình hình đầu tư giảm sút, thị trường bất động sản đóng băng, lãi suất ngân hàng đang ở mức cao, doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng bất động sản…Giá trị sản xuất xây dựng 6 tháng đầu năm 2023 (GSS2010) ước tính tăng 1,07% so với cùng kỳ năm trước.

Giá trị sản xuất xây dựng 6 tháng đầu năm 2023 (giá hiện hành) ước tính đạt 7.862,81 tỷ đồng, chủ yếu do các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện. Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở 3.222,33 tỷ đồng, chiếm 40,98%; công trình nhà không để ở 810,37 tỷ đồng, chiếm 10,31%; công trình kỹ thuật dân dụng 3.331,35 tỷ đồng, chiếm 42,37%; hoạt động xây dựng chuyên dụng 498,76 tỷ đồng, chiếm 6,34%.

Giá trị sản xuất xây dựng 6 tháng đầu năm 2023 (GSS2010) ước tính đạt 4.447,49 tỷ đồng, tăng 1,07% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở 1.817,56 tỷ đồng, giảm 0,63%; giá trị sản xuất xây dựng nhà không để ở 457,18 tỷ đồng, tăng 9,07%; giá trị sản xuất xây dựng công trình kỷ thuật dân dụng 1.878,67 tỷ đồng, giảm 0,41%; giá trị sản xuất xây dựng công trình chuyên dụng 294,08 tỷ đồng, tăng 10,71%.

4. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,95% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu là do giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đồ uống và thuốc lá; nhà ở và vật liệu xây dựng; thiết bị và đồ dùng gia đình…tăng cao do nhu cầu tiêu dùng tăng sau dịch COVID-19, nguồn cung thiếu ổn định, chi phí đầu vào tăng; giá dịch vụ giáo dục tăng do tăng học phí đại học, cao đẳng theo nghị định 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ…Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại là giá xăng dầu điều chỉnh giảm theo giá nhiên liệu thế giới; giá ga giảm; giá bưu chính viễn thông giảm…

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2023 tăng 0,27% so với tháng trước, tăng 0,93% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,10% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý II/2023 tăng 2,79% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,95% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2022 tăng 3,10%). Trong mức tăng 3,95% của chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước, có 8/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá tăng là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,29% (lương thực tăng 1,29%, thực phẩm tăng 7,11%, ăn uống ngoài gia đình tăng 11,11%); giáo dục tăng 6,65%; đồ uống và thuốc lá tăng 6,46%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,55%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,54%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,86%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 2,52%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,18%. Có 2/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: bưu chính viễn thông giảm 0,05%; giao thông giảm 3,04%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế giá ổn định.

 Chỉ số giá vàng tháng 6/2023 giảm 0,12% so với tháng trước, giảm 0,13% so với tháng 12 năm trước và giảm 3,22% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý II/2023 giảm 3,55% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,83% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2022 tăng 18,44%).

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2023 tăng 0,11% so với tháng trước, giảm 2,17% so với tháng 12 năm trước và tăng 1,37% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý II/2023 tăng 2,06% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2022 giảm 0,45%).

III.  CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 ước tính là 335.950 người, tăng 0,52% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nam 174.028 người, chiếm 51,80% và tăng 0,60%; nữ 161.922 người, chiếm 48,20% và tăng 0,43%; khu vực thành thị là 111.449 người, chiếm 33,17% và tăng 0,45%; khu vực nông thôn 224.501 người, chiếm 66,83% và tăng 0,55%.

Lao động đang làm việc 6 tháng đầu năm 2023 ước tính là 328.574 người, chiếm 97,80% lực lượng lao động của tỉnh và tăng 1,15% so với cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao động có việc làm của các khu vực kinh tế như sau: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 135.507 người, chiếm 41,24% trong tổng số lao động đang làm việc và tăng 0,82% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp - xây dựng 65.968 người, chiếm 20,08% và tăng 0,99%; khu vực dịch vụ 127.099 người, chiếm 38,68% và tăng 1,58% (cơ cấu 6 tháng đầu năm 2022 là: 41,37%, 20,11% và 38,52%). Như vậy, tỷ trọng lao động có việc làm tăng lên ở khu vực phi nông, lâm nghiệp thuỷ sản và giảm xuống ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.

 Tỷ lệ thất nghiệp chung của người lao động trong 6 tháng đầu năm 2023 ước khoảng 2,20%, giảm 0,60 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của nam là 2,30% và của nữ là 2,08%; khu vực nông thôn là 2,34% và khu vực thành thị là 1,90%. Tỷ lệ thất nghiệp ở cả 2 khu vực thành thị và nông thôn, ở cả nam và nữ đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù tình hình lao động việc làm tốt hơn cùng kỳ năm trước nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn như: thị trường bất động sản đóng băng; lãi suất ngân hàng ở mức cao, doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận vốn tín dụng bất động sản…nên đầu tư xây dựng cơ bản gặp khó khăn, một bộ phận người lao động trong lĩnh vực này thiếu việc làm; một số doanh nghiệp trong các ngành dệt may, chế biến gỗ…thiếu đơn hàng xuất khẩu, phải dừng hoạt động hoặc sản xuất cầm chừng nên lao động thiếu việc làm…

Tính đến 31/5/2023, đã giải quyết việc làm cho 6.905 lượt lao động; trong đó: Làm việc trong tỉnh 2.841 lượt lao động; làm việc ngoài tỉnh 3110 lượt lao động; làm việc ở nước ngoài 954 lao động, trong đó: xuất khẩu lao động 947 lao động (Đài Loan 279 lao động; Nhật Bản 506 lao động; Hàn Quốc 154 lao động; khác 8 lao động). Ước tính đến 30/6/2023, giải quyết việc làm cho 7.275 lao động; trong đó: Làm việc trong tỉnh 2.936 lao động; làm việc ngoài tỉnh 3.195 lao động; làm việc ở nước ngoài 1.144 lao động.

Tính đến 31/5/2023, toàn tỉnh đã tuyển sinh, đào tạo cho 2.632 học viên (trong đó: Cao đẳng 07 học viên, Trung cấp 409 học viên; Sơ cấp và đào tạo thường xuyên dưới 3 tháng 2.216 học viên). Ước thực hiện đến 30/6/2023, tuyển sinh và đào tạo cho 3.190 học viên (trong đó: Cao đẳng 10 học viên; Trung cấp 430 học viên; Sơ cấp và đào tạo thường xuyên dưới 03 tháng 2.750 học viên).

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Bước vào năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 9,14% (16.512 hộ nghèo); trong đó: tỷ lệ hộ nghèo của huyện nghèo Đakrông là 43,69% (5.175 hộ nghèo).

Đến thời điểm 31/5/2023, tổng số đối tượng người có công và thân nhân hưởng trợ cấp hàng tháng là 17.230 đối tượng, với số tiền chi trả hàng tháng 29.692 triệu đồng. Tổng số đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp hàng tháng là 46.387 đối tượng, với số tiền chi trả hàng tháng 24.901 triệu đồng.

Thực hiện Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; Tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban ngành, đoàn thể và các địa phương chủ động quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức đón Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023. Chú trọng công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn, hộ nghèo, người dân bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, đồng bào vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm mọi nhà, mọi người dân đều được vui Xuân, đón Tết…

Trong dịp tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, tỉnh Quảng Trị đã trao tặng 114.784 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác, tổng kinh phí là 57.389,5 triệu đồng. Trong đó:

+ Quà của Chủ tịch nước là 8.073,6 triệu đồng để trao tặng 26.493 suất quà cho người có công và gia đình  chính sách người có công.

+ Quà ngân sách địa phương (tỉnh/huyện/xã) là 3.781,9 triệu đồng để tặng 8.786 suất quà cho gia đình người có công, gia đình chính sách có công với cách mạng, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng chính sách khác.

+ Quà từ nguồn kinh phí xã hội hóa là 45.534 triệu đồng để trao tặng 79.505 suất quà cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Ngoài ra, tỉnh đã phân bổ 1.063,065 tấn gạo hỗ trợ cho 14.712 hộ (70.871 nhân khẩu) là nhóm hộ thuộc diện bảo trợ xã hội, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số vùng miền núi.

Sáu tháng đầu năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 6,52%. Vụ Đông Xuân 2022-2023, sản xuất cây hàng năm được mùa; sản lượng lương thực có hạt ước tính đạt gần 17,25 vạn tấn, tăng 47,37% so với vụ Đông xuân năm trước. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn. Tính đến nay có 69/101 xã (68,3%) và 01 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Các ngành kinh tế tiếp tục phục hồi và phát triển; công tác an sinh xã hội được quan tâm chu đáo nên đời sống người dân ổn định, không có tình trạng thiếu đói xảy ra.

3. Giáo dục và Đào tạo

Trong 6 tháng đầu năm 2023, ngành Giáo dục và Đào tạo tập trung triển khai các hoạt động để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm học kỳ II; chủ động xây dựng các kế hoạch, giải pháp quản lý chỉ đạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học 2022-2023.

Toàn tỉnh hiện có 399 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên (có 378 cơ sở giáo dục công lập); trong đó: Mầm non 166 đơn vị; Tiểu học 68 đơn vị; TH&THCS 80 đơn vị; THCS 42 đơn vị; THCS&THPT 07 đơn vị; THPT 24 đơn vị; Trường phổ thông nhiều cấp học 02 đơn vị; các trung tâm 10 đơn vị.

Số lượng học sinh toàn ngành là 178.030 học sinh, tăng 1.561 học sinh so với năm học trước (MN 41.364 cháu, TH 63.834 học sinh, THCS 46.335 học sinh, THPT 25.162 học sinh, GDTX cấp THPT 1.335 học viên. Toàn ngành hiện có 14.658 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên (CBQL 989 người; giáo viên 11.462 người; nhân viên 2.207 người). 

Tích cực chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới đối với lớp 4, lớp 8, lớp 11 áp dụng năm học 2023 – 2024.

Tổ chức Cuộc thi Khoa học kỹ thuật học sinh trung học năm học 2022-2023  với sự tham gia của 196 thí sinh đến từ 30 trường có cấp học Trung học phổ thông  và 9 phòng Giáo dục và Đào tạo trong toàn tỉnh; Cuộc thi có 107 dự án đăng ký dự thi (cấp THPT có 87 dự án, cấp THCS có 30 dự án) ở 12 lĩnh vực, đến từ 98 tập thể và 18 cá nhân. Kết quả, có 64 dự án đạt giải (03 giải Nhất, 08 giải Nhì, 26 giải Ba và 27 giải Tư). Tham dự Cuộc thi Khoa học kỷ thuật cấp quốc gia năm 2023, Đoàn Quảng Trị có 02 dự án tham gia dự thi, kết quả đạt 01 giải Nhì và 01 giải Tư.

Tham dự Cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp” quốc gia lần thứ V, năm học 2022 - 2023, đoàn Quảng Trị có 05 dự án tham gia Cuộc thi, kết quả dự án “Thiết kế mô hình ảo Thành Cổ Quảng Trị phục vụ giáo dục và du lịch” của nhóm học sinh Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn đạt giải Nhất; tham gia Cuộc thi “An toàn giao thông cho nụ cười ngày mai” cấp THPT năm học 2022 - 2023, kết quả Đoàn Quảng Trị đạt 02 giải Nhì, 13 giải Ba, 24 giải Khuyến khích. Tham gia Giao lưu “An toàn giao thông cho nụ cười trẻ thơ” cấp quốc gia năm học 2022 - 2023, kết quả đạt 01 giải Nhất.

Dự thi chọn học sinh giỏi quốc gia Trung học phổ thông năm học 2022-2023, đoàn Quảng Trị có 54 thí sinh tham gia dự thi với 9 môn học (gồm có: Toán, Tin học, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, tiếng Anh, Địa lý, Lịch sử, Vật lý). Kết quả, Quảng Trị đoạt 32 giải (09 giải Nhì, 09 giải Ba và 14 giải Khuyến khích). Có 01 thí sinh tham dự kỳ thi chọn đội tuyển quốc gia dự thi Olympic khu vực và quốc tế năm 2023 bộ môn Tin học và đạt Huy chương Đồng.

Tổ chức Kỳ thi học sinh giỏi văn hóa lớp 9 năm học 2022-2023; hội thi Giao lưu tiếng Anh cấp tiểu học năm học 2022-2023; phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh tổ chức Cuộc thi Chinh phục năm học 2022 - 2023; tổ chức “Ngày hội văn hoá các dân tộc Việt Nam” khối các trường Phổ thông dân tộc Nội trú, Phổ thông dân tộc bán trú năm học 2022-2023...

Tổ chức thành công Hội thi thể thao học sinh phổ thông tỉnh Quảng Trị năm học 2022 - 2023, có 877 vận động viên đăng ký tham gia thuộc 42 đoàn đến từ 9 Phòng Giáo dục và Đào tạo và 32 trường phổ thông có cấp Trung học phổ thông tranh tài ở 104 nội dung thuộc bộ môn Điền kinh và Bơi. Đã trao 150 giải Nhất, 151 giải Nhì và 283 giải Ba cho các nội dung.

Tổ chức Hội thảo “Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên mầm non và phổ thông tỉnh Quảng Trị nhằm đáp ứng 2 yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030”; tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường học tham gia thử nghiệm “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thông qua tổ chức các hoạt động chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”.

Tổ chức kiểm tra học kỳ II lớp 9, xét tốt nghiệp THCS; tổ chức kỳ thi khảo sát chất lượng học sinh lớp 11 với 03 môn: Toán, Ngữ Văn và tiếng Anh; các đơn vị, trường học tổ chức tổng kết năm học 2022-2023; chuẩn bị các điều kiện thi tốt nghiệp THPT năm 2023. 

Tổ chức tuyển sinh các lớp đầu cấp năm học 2023 - 2024, theo đó có tổng số thí sinh đăng ký dự thi vào 28 Hội đồng thi tuyển sinh lớp 10 THPT là 9.602 thí sinh, Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn là 566 thí sinh.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, UBND tỉnh đã ban hành quyết định và cấp Bằng công nhận đạt chuẩn quốc gia cho 25 đơn vị. Tính đến ngày 31/5/2023, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 195/367 (chỉ tính khối các trường công lập), đạt tỷ lệ 53,13%, trong đó: Mầm non có 97/147 trường, đạt tỷ lệ 65,99%; Tiểu học có 33/67 trường, đạt tỷ lệ 49,25%; Trung học cơ sở có 25/42 trường, đạt tỷ lệ 59,52%; Trung học phổ thông có 10/24 trường, đạt tỷ lệ 41,67%; Trường phổ thông có nhiều cấp học 30/87 trường, đạt tỷ lệ 34,48%.

Thực hiện tốt công tác huy động học sinh đến trường, duy trì kết quả phổ cập giáo dục - xóa mù chữ. 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS. Tính đến ngày 31/5/2023, toàn tỉnh có 02 xã Mức độ 1; 29 xã Mức độ 2; 94 xã Mức độ 3; 01 huyện đạt Mức độ 1; 04 huyện đạt Mức độ 2; 05 huyện đạt Mức độ 3. Tỉnh Quảng Trị đạt Mức độ 1 về phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

4. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực  phẩm

Trong tháng 6/2023 (Từ 15/5-14/6) toàn tỉnh đã ghi nhận 321 ca mắc COVID-19, không có trường hợp tử vong. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh ghi nhận 677 ca mắc và 01 trường hợp tử vong. Số bệnh nhân hiện đang điều trị tại các cơ sở y tế 19 trường hợp, số bệnh nhân hiện đang điều trị tại nhà là 31 trường hợp.

Công tác tiêm chủng phòng COVID-19 (đến ngày 14/6/2023):

+ Tổng số người từ 18 tuổi trở lên đã hoàn thành mũi cơ bản đạt 98,5%; số người tiêm mũi nhắc lại lần 1 đạt 78,9%; số người tiêm mũi bổ sung đạt 10,5%. Số người tiêm mũi nhắc lại lần 2 đạt 83%.

+ Tổng số người từ 12 đến dưới 18 tuổi đã hoàn thành mũi cơ bản đạt  97,6%. Số người tiêm mũi nhắc lại lần 1 đạt 52,1%. 

+ Tổng số người từ 5 đến dưới 12 tuổi được tiêm mũi 1 đạt 69,3%. Số người được tiêm 02 mũi đạt 57,1%.

Theo báo cáo Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng trên địa bàn tỉnh có 396 ca mắc bệnh cúm; 08 ca mắc Lỵ amíp; 09 ca mắc bệnh lỵ trực trùng; 11 ca quai bị; 25 ca mắc thuỷ đậu; 138 ca mắc bệnh tiêu chảy; 08 ca viêm gan vi rút; 33 ca mắc bệnh sốt xuất huyết; 03 ca tay chân miệng. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.937 ca mắc bệnh cúm, giảm 6,52% (-135 ca) so với cùng kỳ năm trước; 18 ca mắc bệnh lỵ Amip, tăng 5,88% (+01 ca); 75 ca mắc bệnh lỵ trực trùng, tăng 19,05% (+12 ca); 22 ca mắc quai bị, tăng 4,5 lần (+17 ca); 103 ca mắc thuỷ đậu, tăng 66,13% (+42 ca); 599 ca mắc bệnh tiêu chảy, tăng 28,27% (+132 ca); 51 ca viêm gan vi rút, tăng 218,75% (+35 ca); 01 ca sốt rét (+01 ca); 295 ca mắc bệnh sốt xuất huyết, tăng 16,4 lần (+277 ca); 08 ca tay chân miệng, giảm 61,90% (-13 ca). Không có trường hợp tử vong.

Công tác khám chữa bệnh trong 6 tháng đầu năm 2023: Số lượt người khám bệnh 375.915 lượt, tăng 4,05% so với cùng kỳ năm trước; số lượt bệnh nhân điều trị nội trú 60.142 lượt, tăng 16,71%; số lượt bệnh nhân điều trị ngoại trú 58.102 lượt; số lượt xét nghiệm 870.572 lượt; số lượt chụp X-Quang 110.905 lượt; số lượt siêu âm 95.524 lượt; số lượt điện tim 60.101 lượt; số lượt CT 11.405 lượt.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện 16 trường hợp nhiễm mới HIV, có 05 bệnh nhân tử vong do AIDS. Tính đến nay, toàn tỉnh có 84 xã, phường, thị trấn phát hiện có người nhiễm HIV/AIDS; Số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 302 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 42 bà mẹ); Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 108 người.

Trong tháng Sáu và 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại huyện Triệu Phong, tăng 01 vụ so với cùng kỳ năm trước; làm 48 người bị ngộ độc, không có trường hợp tử vong.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh tập trung trang trí khánh tiết, tổ chức tuyên truyền chào mừng Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Quý Mão năm 2023; Lễ hội thống nhất non sông Kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và Kỷ niệm 51 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị; Kỷ niệm 69 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ; Kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Hội thảo khoa học “Bằng chứng lịch sử và vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” nhân kỷ niệm 50 năm ngày ra mắt Trụ sở Chính phủ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam; Lễ Kỷ niệm 50 năm ngày ra mắt Trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, tỉnh đã tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao mừng Đảng, mừng Xuân Quý Mão năm 2023 trên tinh thần thiết thực, đầm ấm, vui tươi, an toàn, lành mạnh.

+ Tại Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hoạt động đường phố tại tuyến Phố đêm Đông Hà…thu hút hàng ngàn người dân tham gia. Đặc biệt, tổ chức thành công Chương trình nghệ thuật đặc biệt mừng Đảng, mừng Xuân Quý Mão năm 2023 với chủ đề “Mãi mãi niềm tin bên Đảng” và kết thúc chương trình là bắn pháo hoa chào đón năm mới 2023.

+ Tổ chức 36 buổi chiếu phim lưu động phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa tại huyện Hướng Hóa, Đakrông, Vĩnh Linh với hơn một vạn người xem; tổ chức 12 buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhân dân trước, trong dịp Tết tại các huyện, thị xã, thành phố; tổ chức trưng bày Báo Xuân Quý Mão năm 2023.

 + Tại các địa phương đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí đậm chất dân gian truyền thống như: Hội chợ Hoa Xuân tại các huyện, thị xã, thành phố; Hội Báo Xuân và Chợ Xuân năm 2023; tổ chức thi đấu các môn thể thao quần chúng, các môn thể thao dân tộc và các trò chơi dân gian đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia như: hội Cờ Chòi, hội Cù truyền thống; hội đua thuyền truyền thống… 

Xây dựng và biểu diễn nghệ thuật phục vụ các nhiệm vụ chính trị như: Chương trình “Nối vòng tay nhân ái” Xuân Quý Mão 2023; Chương trình nghệ thuật đặc biệt đêm giao thừa mừng Đảng mừng Xuân Quý Mão năm 2023 với chủ đề “Mãi mãi niềm tin bên Đảng”; biểu diễn văn nghệ phục vụ Gặp mặt văn nghệ sĩ đầu năm 2023, Ngày thơ Việt Nam năm 2023; tham gia biểu diễn nghệ thuật tại Vương quốc Thái Lan; Ngày hội văn hóa giáo dục đại học lần thứ 21 tại trường Đại học Ubon Ratchathani Rajabhat, Vương quốc Thái Lan…Phát động sáng tác, sưu tầm và bảo tồn các làn điệu dân ca, đặc biệt là Hò giã gạo của Quảng Trị.

Tổ chức thành công Lễ Thượng cờ "Thống nhất non sông" và phát động cuộc thi sáng tác biểu tượng “Ước nguyện Hoà bình” Quảng Trị năm 2023.

Tổ chức Hội Bài Chòi tại di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải vào tối 29/4/2023 với sự tham gia của 14 nghệ sĩ, thu hút khoảng 500 lượt khách đón xem nhân dịp kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; biểu diễn chương trình nghệ thuật với chủ đề “Khúc ca hòa bình” trong Lễ hội “Thống nhất non sông” tại kỳ đài Hiền Lương sáng 30/4/2023.

Phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức thành công Lễ hội Văn hoá - Ẩm thực Việt Nam năm 2023 tại tỉnh Quảng Trị với sự tham gia 83 gian hàng ẩm thực, hơn 500 món ăn và thức uống 3 miền Bắc - Trung - Nam, đã thu hút trên 30 ngàn lượt khách tham quan.

Thể thao quần chúng phát triển sâu rộng trong mọi đối tượng với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Sáu tháng đầu năm 2023, tỷ lệ người dân tập luyện TDTT thường xuyên đạt: 37,2% dân số; Tỷ lệ gia đình tập luyện TDTT đạt: 27,9% tổng số hộ dân; có 855 câu lạc bộ và điểm tập TDTT; có 03 liên đoàn và hội thể thao. Chỉ đạo tổ chức thành công Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân và Tháng hoạt động thể dục, thể thao cho mọi người nhằm tiếp tục duy trì và đẩy mạnh Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2021-2030, thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh ở cơ sở. Chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội Liên đoàn Karate tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2023 - 2028 và chỉ đạo Đoàn thể thao tham gia Giải Điền kinh người khuyết tật toàn quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh đạt 8HCV, 7HCB, 4HCĐ xếp thứ 3 toàn quốc.

Thể thao thành tích cao: Các đội tuyển thể thao tiếp tục duy trì tập luyện thường xuyên, tập trung 08 bộ môn, gồm: Canoeing, Rowing, Cầu lông, Điền kinh, Vật, Karate, Cử tạ và Bơi. Sáu tháng đầu năm 2023, tham gia thi đấu 5 giải thể  thao quốc gia đạt 33 huy chương các loại (5HCV, 11HCB, 17HCĐ). Đặc biệt đã chỉ đạo tổ chức thành công Giải Đua thuyền truyền thống "Lễ hội Thống nhất non sông" tỉnh Quảng Trị năm 2023 - Tranh cúp Huda, với sự tham dự của gần 200 vận động viên nam, nữ đến từ 17 đội đua thuyền truyền thống nam, nữ của các huyện: Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng, Đakrông, thị xã Quảng Trị và TP. Đông Hà. Kết quả chung cuộc: huyện Triệu Phong đạt giải Nhất toàn đoàn; thị xã Quảng Trị đạt giải Nhì toàn đoàn và huyện Hải Lăng đạt giải ba toàn đoàn.

 Đại hội Thể thao người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 12 (ASEAN Para Games 12) năm 2023 vừa diễn ra tại Campuchia. Tỉnh Quảng Trị vinh dự có 1 HLV và 8 VĐV đã tham gia thi đấu ở nội dung bơi, giành được 13 huy chương (10 HCB, 3 HCĐ), góp phần cùng Đoàn Thể thao NKT Việt Nam mang vinh quang về cho Tổ quốc.

6. Tai nạn giao thông

Trong tháng 6/2023 (từ 15/5/2023 đến 14/6/2023), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 10 vụ tai nạn giao thông, bằng tháng trước và giảm 58,33% (-14 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 06 người, tăng 100% (+03 người) và giảm 40% (-04 người); bị thương 08 người, bằng tháng trước và giảm 46,67% (-07 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông trong tháng, đường bộ xảy ra 09 vụ, làm chết 05 người, bị thương 08 người; đường sắt xảy ra 01 vụ, làm chết 01 người.

Tính cả quý II/2023 (Từ 15/3/2023 đến 14/6/2023) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, giảm 47,37% (-27 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 15 người, giảm 51,61% (-16 người); bị thương 25 người, giảm 48,98% (-24 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông trong quý, đường bộ xảy ra 28 vụ, làm chết 13 người, bị thương 25 người; đường sắt xảy ra 02 vụ, làm chết 02 người.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 (Từ 15/12/2022 đến 14/6/2023) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 75 vụ tai nạn giao thông, giảm 16,67% (-15 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 36 người, giảm 30,77% (-16 người); bị thương 66 người, giảm 7,04% (-05 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông trong 6 tháng đầu năm 2023, đường bộ xảy ra 72 vụ, làm chết 34 người, bị thương 65 người; đường sắt xảy ra 03 vụ, làm chết 02 người, bị thương 01 người.

7. Thiệt hại thiên tai, phòng chống cháy nổ và bảo vệ môi trường

Tháng 6/2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ mưa dông kèm theo lốc xoáy (Gio Linh 01 vụ, Vĩnh Linh 01 vụ), làm 09 ngôi nhà bị tốc mái, không có thiệt hại về người. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 06 vụ thiên tai, làm 02 người chết, 02 người bị thương; 276 nhà ở bị hư hỏng, tốc mái; 729,68 ha lúa bị đổ, ngã, ngập úng; 34,5 ha hoa màu bị hư hại; 24 ha cây lâm nghiệp bị gãy đỗ...

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 03 vụ cháy (01 vụ do chập điện, 02 vụ do sơ suất trong sử dụng lửa), giảm 40% (-02 vụ) so với tháng trước và giảm 40% (-02 vụ) so với cùng kỳ năm trước; không có thiệt hại về người; ước tính giá trị thiệt hại về tài sản 300 triệu đồng, tăng 50% và giảm 82,37%. Tính chung từ đầu năm đến nay đã xảy ra 24 vụ cháy, giảm 22,58% (-07 vụ) so với cùng kỳ năm trước; không có thiệt hại về người; ước tính giá trị thiệt hại về tài sản 1.165,6 triệu đồng, giảm 78,96%.

Trong tháng 6/2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện và xử lý 09 vụ vi phạm môi trường, giảm 18,18% (-02 vụ) so tháng trước và giảm 40% (-06 vụ) so với cùng kỳ năm trước (05 vụ vi phạm khai thác tài nguyên khoáng sản, 03 vụ vi phạm về an toàn thực phẩm, 01 vụ vi phạm khác); số tiền xử phạt 130,15 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm đến nay đã phát hiện và xử lý 92 vụ vi phạm môi trường, giảm 35,66% (-51 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 813,16 triệu đồng, giảm 11,40% (-104,65 triệu đồng).

► Số liệu KT-XH Qúy II và 6 tháng năm 2023   

 

   CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ


[1] Tốc độ tăng GRDP 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2020-2023 lần lượt là: 4,17%; 6,10%; 3,50%; 6,52%.

[2] Tốc độ tăng khu vực công nghiệp - xây dựng 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2017-2023 lần lượt là: 11,84%; 7,60%; 9,15%; 8,39%; 9,23%; 6,59%; 6,18%.

 


Hoạt động trong ngành
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 05/11/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2024 - 05/11/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê Quảng Trị - 28/10/2024
Công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 28/10/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 Cục Thống kê Quảng Trị - 18/10/2024
Quyết định về việc công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 11/10/2024
Quyết định về việc công khai quyết toán ngân sách năm 2023 của Cơ quan Cục Thống kê Quảng Trị - 30/08/2024
CÔNG BỐ CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 16/08/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 01/07/2024
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Điều tra 53 DT thiểu số năm 2024

HỎI ĐÁP ĐIỀU TRA KT-XH
CỦA 53 DT THIỂU SỐ

Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê
Mạng riêng của ngành Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013