Kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị năm 2019 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại và tiềm ẩn nhiều rủi ro; thương mại và đầu tư thế giới giảm; cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung diễn biến khó lường. Xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch…cũng là thách thức đối với kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam. Trong nước, tình hình kinh tế năm 2019 tiếp tục chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; ngành chăn nuôi gặp khó khăn do dịch tả lợn Châu Phi lây lan trên diện rộng; một số mặt hàng nông, thủy sản khó khăn về thị trường và giá xuất khẩu; giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp…
Đối với tỉnh Quảng Trị, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn: hạn hán xảy ra trong vụ Hè Thu đã ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng, dịch tả lợn Châu Phi lây lan trên diện rộng ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi…Thực hiện phương châm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy: “Trách nhiệm, kỷ cương, tăng tốc, phát triển” để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Đồng thời, thực hiện Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ, Kết luận số 137-KL/TU ngày 30/11/2018 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 17/2018/NQ-HĐND ngày 08/12/2018 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019; Ngay từ đầu năm, các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện kịp thời, quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong năm 2019 nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ và đạt kết quả tích cực trên nhiều ngành và lĩnh vực.
Kết quả cụ thể các ngành và lĩnh vực trong quý IV và năm 2019 như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2019 ước tính tăng 7,72%, cao nhất trong giai đoạn 2016-2019 và cao hơn nhiều so với bình quân chung cả nước; đã khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương. Trong mức tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ước tính tăng 4,92%; khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính tăng 13,90%; khu vực dịch vụ ước tính tăng 6,13%.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,92%, đóng góp 1,10 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Khu vực này năm 2019 đạt mức tăng trưởng thấp hơn năm 2018 (Năm 2018 tăng 5,43%) do hạn hán, biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cây trồng, ngành chăn nuôi thiệt hại nặng nề do dịch tả lợn Châu Phi, nông sản gặp khó khăn về thị trưởng tiêu thụ và giá cả. Tuy nhiên, sản xuất cây lâu năm, lâm nghiệp và thủy sản đạt được những kết quả tích cực: sản lượng cao su tăng 23,88%, sản lượng hồ tiêu tăng 60,61%, rừng trồng mới tập trung tăng 6,83%, sản lượng gỗ khai thác tăng 14,82%, tổng sản lượng thủy sản tăng 11,36%...đã làm cho khu vực này tăng trưởng khá.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 13,90%, đóng góp 3,16 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành công nghiệp tăng 12,29%, đóng góp 1,33 điểm phần trăm. Năm 2019, ngành công nghiệp tăng trưởng khá, cao hơn mức tăng của năm 2018 (Năm 2018 tăng 11,38%). Trong ngành công nghiệp, ngành sản xuất và phân phối điện do có những dự án điện gió, điện mặt trời… hoàn thành đi vào hoạt động nên tăng trưởng rất cao 22,35%. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,22%, vẫn giữ được vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp. Ngành xây dựng tăng 15,37%, đóng góp 1,83 điểm phần trăm. Năm 2019, thực hiện phương châm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy: “Trách nhiệm, kỷ cương, tăng tốc phát triển” để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra và thiết thực Kỷ niệm 30 năm Ngày tái lập tỉnh. Tỉnh Quảng Trị đã có những đột phá trong quảng bá, xúc tiến, thu hút vốn đầu tư; nhiều chương trình/dự án được cấp phép, khởi công mới, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trong năm 2019. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành đã có nhiều nổ lực tập trung tháo gở khó khăn, đẩy nhanh tiến độ giải ngân theo chỉ đạo của Chính phủ…vì vậy, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn cũng như giá trị sản xuất xây dựng năm 2019 tăng cao so với năm trước.
Khu vực dịch vụ tăng 6,13% thấp hơn mức tăng của năm 2018 (Năm 2018 tăng 6,86%), đóng góp 3,09 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Năm 2019, kinh tế phát triển khá, sức mua của người dân tăng lên nên một số ngành dịch vụ kinh doanh có tỷ trọng giá trị tăng thêm lớn có tốc độ tăng trưởng khá như: bán buôn, bán lẻ tăng 8,27%; vận tải tăng 7,08%; thông tin truyền thông tăng 7,99%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,88%; hoạt động hành chính và dịch vụ hổ trợ tăng 8,40%...Tuy nhiên, các ngành dịch vụ không kinh doanh như: quản lý nhà nước chỉ tăng 2,19%; giáo dục và đào tạo tăng 5,23%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 5,01%…do thực hiện Đề án sắp xếp các cơ quan chuyên môn và các đơn vị sự nghiệp công lập nên biên chế có xu hướng giảm, thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên...làm cho khu vực này tăng chậm lại.
GRDP bình quân đầu người năm 2019 theo giá hiện hành ước tính đạt 49,5 triệu đồng.
2. Tài chính, ngân hàng
2.1. Tài chính
Năm 2019, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về thực hiện chính sách tài khoá chủ động, chặt chẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách, kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa cần thiết…Tình hình thu, chi ngân sách năm 2019 đạt được những kết quả tích cực; thu ngân sách trên địa bàn vượt dự toán và tăng cao so với năm trước; chi ngân sách địa phương đáp ứng đầu tư phát triển, chi thường xuyên và tăng thấp hơn so với năm trước.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/12/2019 đạt 3000 tỷ đồng, bằng 103,44% dự toán địa phương năm 2019 và tăng 20,81% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 2.534,6 tỷ đồng, bằng 98,62% dự toán và tăng 16,44%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 451,6 tỷ đồng, bằng 136,86% dự toán và tăng 64,75%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: thu tiền sử dụng đất 833,26 tỷ đồng, bằng 130,61% dự toán và tăng 39,56% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 660,43 tỷ đồng, bằng 84,30% và tăng 4,7%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 251,98 tỷ đồng, bằng 83,99% dự toán và tăng 3,58%; thuế bảo vệ môi trường 247,79 tỷ đồng, bằng 82,60% dự toán và 24,91%...
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/12/2019 đạt 7.164,87 tỷ đồng, bằng 90,62% dự toán địa phương năm 2019 và tăng 6,70% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.583,17 tỷ đồng, bằng 231,18% dự toán và tăng 11,93%; chi thường xuyên 4.552,34 tỷ đồng, bằng 98,09% dự toán và tăng 6,04%. Trong chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.929,21 tỷ đồng, tăng 6,81% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 1.074,80 tỷ đồng, tăng 4,40%; chi sự nghiệp kinh tế 523,06 tỷ đồng, tăng 15,32%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 397,22 tỷ đồng, giảm 0,64%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 236,64 tỷ đồng, tăng 7,95%...
2.2. Ngân hàng
Năm 2019, ngành Ngân hàng triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 08/01/2019 của Thống đốc NHNN Việt Nam về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng năm 2019. Một số chương trình tín dụng trọng điểm trong năm là: cho vay nông nghiệp, nông thôn; cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; hổ trợ lãi suất vốn vay phát triển sản xuất, kinh doanh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015-2020; Chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp…Huy động vốn và dư nợ cho vay đối với nền kinh tế năm 2019 tăng trưởng khá; lãi suất và thị trường tiền tệ ổn định.
Huy động vốn trên địa bàn đến 31/12/2019 ước tính đạt 22.424 tỷ đồng, tăng 10% so với cuối năm 2018. Cơ cấu tiền gửi: tiền gửi tiết kiệm 18.282 tỷ đồng, chiếm 81,53%, tăng 20,98% so với cuối năm 2018; tiền gửi thanh toán 2.381 tỷ đồng, chiếm 10,62%, giảm 18,71%; huy động khác 1.393 tỷ đồng, chiếm 6,21%, giảm 28,71%...
Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 31/12/2019 ước tính đạt 36.084 tỷ đồng, tăng 15% so với cuối năm 2018. Dư nợ cho vay phân theo thời hạn: dư nợ cho vay ngắn hạn 15.893 tỷ đồng, chiếm 44,04%, tăng 14,53% so với cuối năm 2018; dư nợ cho vay trung và dài hạn 20.191 tỷ đồng, chiếm 55,96%, tăng 15,37%.
Nợ xấu đến 31/12/2019 ước tính là 360 tỷ đồng, chiếm 1% tổng dư nợ.
3. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2019 chỉ tăng 2,32% so với bình quân năm 2018; trước hết là do chính sách tiền tệ linh hoạt, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Giá một số nhóm hàng tăng cao làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng như: tăng cao nhất là nhóm thuốc và dịch vụ y tế do điều chỉnh giá dịch vụ y tế; nhóm giáo dục tăng do tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng do dịch tả lợn Châu Phi làm cho nguồn cung thịt lợn giảm nên giá thịt lợn và một số loại thực phẩm thay thế khác tăng theo, hạn hán kéo dài nên giá một số loại rau quả tăng…Tuy nhiên, vẫn có một số nhóm hàng giảm làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng chậm lại như: nhóm giao thông giảm do giá xăng, dầu điều chỉnh giảm; nhóm bưu chính viễn thông giảm do các nhà mạng thúc đẩy cạnh tranh, đa dạng hóa các gói dịch vụ, giảm giá…
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Mười Hai tăng 0,94% so với tháng trước, tăng 5,29% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý IV/2019 tăng 4,13% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2019, tăng 2,32% so với bình quân năm trước (Năm 2018 tăng 2,29%). Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là: giao thông giảm 0,74%; bưu chính viễn thông giảm 0,17%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,41%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,74%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,22%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,47%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,11%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,34%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,88% (lương thực tăng 2,92%, thực phẩm tăng 4,84%, ăn uống ngoài gia đình tăng 2,58%); giáo dục tăng 4,31%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,18%.
Chỉ số giá vàng tháng Mười Hai giamr,49% so với tháng trước; tăng 16,89% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý IV/2019 tăng 18,28% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, chỉ số giá vàng bình quân năm 2019 tăng 8,11% so với bình quân năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Mười Hai giảm 0,1% so với tháng trước; giảm 0,93% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý IV/2019 giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, chỉ số giá đô la Mỹ bình quân năm 2019 tăng 0,74% so với bình quân năm trước.
4. Đầu tư
Năm 2019, thực hiện phương châm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy: “Trách nhiệm, kỷ cương, tăng tốc phát triển” để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra và thiết thực Kỷ niệm 30 năm Ngày tái lập tỉnh. Tỉnh Quảng Trị đã có những đột phá trong quảng bá, xúc tiến, thu hút vốn đầu tư; nhiều chương trình/dự án được cấp phép, khởi công mới, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trong năm 2019. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành đã có nhiều nổ lực tập trung tháo gở khó khăn, đẩy nhanh tiến độ giải ngân theo chỉ đạo của Chính phủ…vì vậy, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn và giá trị sản xuất xây dựng năm 2019 tăng cao so với năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý IV/2019 (giá hiện hành) ước tính đạt 5.135,42 tỷ đồng, tăng 18,17% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn khu vực nhà nước đạt 1.252,62 tỷ đồng, giảm 9,93%; vốn khu vực ngoài nhà nước đạt 3.827,29 tỷ đồng, tăng 33,67%; vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 55,51 tỷ đồng, giảm 39,59%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý IV/2019, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 577,20 tỷ đồng, giảm 0,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 422,50 tỷ đồng, giảm 10,89%; vốn ngân sách huyện đạt 137,52 tỷ đồng, tăng 60,45%; vốn ngân sách xã đạt 17,18 tỷ đồng, giảm 1,61%.
Tính chung, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2019 (giá hiện hành) ước tính đạt 16.882,43 tỷ đồng, tăng 27,21% so với năm trước; trong đó: vốn khu vực nhà nước đạt 4.520,63 tỷ đồng, tăng 6,08%; vốn khu vực ngoài nhà nước đạt 12.102,44 tỷ đồng, tăng 37,39%; vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 259,36 tỷ đồng, tăng 28,97%.
Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2019, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 12.031,02 tỷ đồng, tăng 28,75% so với năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản đạt 3.080,89 tỷ đồng, tăng 51,49%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ đạt 1.500,14 tỷ đồng, tăng 8,62%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động đạt 192,22 tỷ đồng, giảm 55,53%; vốn đầu tư phát triển khác đạt 78,16 tỷ đồng, giảm 1,81%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước năm 2019, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 2.235,54 tỷ đồng, bằng 100,11% kế hoạch năm 2019 và giảm 7,41% so với năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 1.635,68 tỷ đồng, bằng 100,09% kế hoạch và giảm 17,48%; vốn ngân sách huyện đạt 521,95 tỷ đồng, bằng 100,15% kế hoạch và tăng 45,77%; vốn ngân sách xã đạt 77,91 tỷ đồng, bằng 100,12% kế hoạch và tăng 5,05%.
Trong năm 2019, có 8 dự án lớn được khánh thành đi vào hoạt động như: Nhà máy điện gió Hướng Linh 1, Thủy điện Đakrông 4, Nhà máy chế biến cát thạch anh, Nhà máy sản xuất tấm calcium silicate, Nhà máy sản xuất viên nén gỗ Tân Ký…với tổng mức đầu tư 5.120 tỷ đồng.
Vốn FDI: Năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 01 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp Quyết định chủ trương đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng số vốn đăng ký 20 triệu USD; tính đến nay trên địa bàn tỉnh có 15 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 66,65 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2019 ước tính đạt 11,18 triệu USD, tăng 26,74% so với năm trước.
Vốn ODA: Năm 2019, có 01 dự án ODA được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư với tổng vốn đầu tư 151,16 tỷ đồng. Dự ước vốn ODA thực hiện năm 2019 đạt 527,65 tỷ đồng.
Vốn NGO: Năm 2019, Tỉnh đã vận động 29 khoản viện trợ NGO với tổng giá trị vốn cam kết là 5,45 triệu USD; vốn thực hiện các dự án NGO năm 2019 ước đạt 16,25 triệu USD.
Về tiến độ giải ngân vốn: Đến 30/11/2019, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 1.945,28 tỷ đồng, đạt 67,03% kế hoạch năm 2019; trong đó: nguồn vốn ngân sách địa phương quản lý thực hiện 1.740,19 tỷ đồng, đạt 68,54% kế hoạch.
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng 12/2019 (Từ 1/12-16/12), toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 61 tỷ đồng. Số doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động là 09 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 10 doanh nghiệp.
Quý IV/2019 (Từ 1/10-16/12), toàn tỉnh có 81 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 2.253 tỷ đồng; giảm 17,35% về số doanh nghiệp và tăng 166,94% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 27,81 tỷ đồng, tăng 222,99%. Số doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động là 27 doanh nghiệp, tăng 145,45% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 25 doanh nghiệp, giảm 20%.
Tính chung năm 2019 (Từ 1/1-16/12), toàn tỉnh có 366 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 9872 tỷ đồng, tăng 1,94% về số doanh nghiệp và tăng 284,42% về số vốn đăng ký so với năm trước; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 26,97 tỷ đồng, tăng 277,20% so với số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp năm trước. Số doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động là 139 doanh nghiệp, tăng 7,75% so với năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 98 doanh nghiệp, tăng 18,07%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…
Năm 2019, số doanh nghiệp thành lập mới tăng cả về số lượng và số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp cho thấy môi trường kinh doanh trong tỉnh đã có cải thiện, là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo.
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
6.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
Năm 2019, ngành trồng trọt chú trọng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa chất lượng cao, tổ chức chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa thiếu nước sang các cây trồng cạn như: ngô, lạc, rau màu các loại. Đồng thời, tăng cường xúc tiến, kêu gọi các doanh nghiệp liên kết sản xuất, ký hợp đồng thu mua nông sản cho nông dân, tổ chức lại sản xuất theo hướng nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch…
a1. Cây hàng năm
* Kết quả sản xuất cây hàng năm năm 2019.
Sản xuất cây hàng năm năm 2019 gặp nhiều khó khăn, đầu vụ Đông Xuân gặp mưa rét vào thời điểm xuống vụ; hạn hán trong vụ Hè Thu và ngập úng cuối vụ Hè Thu đã ảnh hưởng đến năng suất các loại cây trồng…Nhìn chung năm 2019, diện tích và sản lượng của hầu hết các loại cây hàng năm đều giảm so với năm 2018.
Về diện tích: Năm 2019, toàn tỉnh đã gieo trồng được 81.698,3 ha các loại cây hàng năm, giảm 2,62% so với năm 2018. Một số loại cây trồng chủ yếu: cây lúa 50.477 ha, giảm 0,46% so với năm trước; cơ cấu giống lúa chủ yếu là các loại giống ngắn ngày, cho năng suất chất lượng cao như: HN6, TL6, AC5, HC95, HT1, Thiên Ưu 8, P6, NA2…; cây ngô gieo trồng 3.810,6 ha, giảm 8,51%; khoai lang 2.037,4 ha, giảm 10,73%; sắn 11.728,6 ha, giảm 1,31%; lạc 3.344,7 ha, giảm 6,55%; rau các loại 4.941,5 ha, giảm 5,39%; đậu các loại 1.621,8 ha, giảm 4,37%; cây ớt cay 394,9 ha, giảm 13,44%...
Về năng suất: Năng suất lúa cả năm ước đạt 54,1 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha so với năm trước; cây ngô năng suất đạt 36,1 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; cây khoai lang năng suất đạt 81,7 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; cây sắn năng suất đạt 170,4 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; cây lạc năng suất đạt 21,1 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; rau các loại năng suất đạt 103,6 tạ/ha, tăng 2,1 tạ/ha; đậu các loại năng suất đạt 9,8 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha; cây ớt cay năng suất đạt 57,5 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha…
Về sản lượng: Năm 2019, tổng sản lượng lương thực có hạt ước tính đạt 287.032,2 tấn, giảm 0,98% (-2.834,9 tấn) so với năm 2018. Sản lượng lúa đạt 273.253,2 tấn, giảm 0,82% (-2.245,5 tấn); sản lượng ngô đạt 13.766,5 tấn, giảm 4,11% (-589,9 tấn); khoai lang đạt 16.643 tấn, giảm 9,01% (-1.647,2 tấn); sắn 199.898,6 tấn, giảm 0,53% (-1.072,3 tấn); lạc đạt 7.058,3 tấn, giảm 3,71% (-271,8 tấn); rau các loại đạt 51.205,1 tấn, giảm 3,44% (-1.823,5 tấn); đậu các loại đạt 1.591,5 tấn, giảm 5,45% (-91,7 tấn); ớt cay đạt 2.271,8 tấn, giảm 12,59% (-327,3 tấn)…
* Tiến độ sản xuất vụ Đông Xuân năm 2019-2020
Đến ngày 15/12/2019, cây lúa gieo cấy 20 ha; cây ngô gieo trồng 256 ha, bằng 108,94% cùng kỳ năm trước; cây khoai lang gieo trồng 257 ha, bằng 100,78%; lạc 18 ha, bằng 112,50%; rau các loại 1.299 ha, bằng 103,10%; hoa các loại 15,60 ha, bằng 268,97%; cây ớt cay 8,2 ha, bằng 85,42%...
a2. Cây lâu năm
Sản xuất cây lâu năm năm 2019, tiếp tục gặp khó khăn cả về thị trường tiêu thụ và giá cả sản phẩm nên không khuyến khích người nông dân đầu tư trồng mới, thâm canh tăng năng suất; hạn hán trong năm 2019 đã ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng các loại cây lâu năm…
Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có 33.977,1 ha, giảm 0,07% (-23,8 ha) so với cùng thời điểm năm trước. Một số cây lâu năm chủ yếu như:
Cây cà phê: diện tích hiện có 4.866,2 ha, giảm 0,8% so với năm 2018; diện tích thu hoạch 4.537,2 ha, giảm 1,09%; năng suất ước đạt 12,2 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 5.528,8 tấn, giảm 0,21%.
Cây cao su: diện tích hiện có 19.396,7 ha, tăng 0,58% so với năm 2018; diện tích thu hoạch 13.920,3 ha, tăng 11,68%; năng suất ước đạt 13,6 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 18.931,7 tấn, tăng 23,88%.
Cây hồ tiêu: diện tích hiện có 2.495,5 ha, giảm 0,38% so với năm 2018; diện tích thu hoạch 2.153,9 ha, tăng 5,40%; năng suất ước đạt 11,1 tạ/ha, tăng 3,8 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 2.381,7 tấn, tăng 60,61%.
Cây chuối: diện tích hiện có 4.380 ha, tăng 0,23% so với năm 2018; diện tích thu hoạch 3.998,5 ha, tăng 2,21%; năng suất ước đạt 173,2 tạ/ha, tăng 10 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 69.250,4 tấn, tăng 8,47%.
Cây dứa: diện tích hiện có 468,7 ha, giảm 9,24% so với năm 2018; diện tích thu hoạch 421,9 ha, giảm 5,76%; năng suất ước đạt 90 tạ/ha, giảm 1,5 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 3.797,1 tấn, giảm 7,31%.
b. Chăn nuôi
Chăn nuôi đã có sự chuyển biến rỏ nét về tổ chức sản xuất; chăn nuôi theo hướng trang trại, gia trại tập trung theo chuỗi khép kín, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến; nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học và vệ sinh môi trường đang được phổ biến, nhân rộng. Số lượng trang trại chăn nuôi tăng mạnh, đến nay toàn tỉnh có trên 78 trang trại chăn nuôi; trong đó có 4 HTX chăn nuôi, 48 trang trại chăn nuôi liên kết, 03 trang trại chăn nuôi đã được cấp giấy chứng nhận VietGap tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Ước tính đến 31/12/2019, đàn trâu có 22.100 con, giảm 3,50% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 56.500 con, giảm 6,60%; đàn lợn có 154.100 con, giảm 36,65%; đàn dê có 25.200 con, tăng 5,28%; đàn gia cầm có 3.500 nghìn con, tăng 15,93%, trong đó: đàn gà 2.650 nghìn con, tăng 9,82%. Hiện nay, chăn nuôi trâu bò chủ yếu để lấy thịt; do hiệu quả kinh tế không cao và diện tích chăn thả bị thu hẹp nên đàn trâu bò giảm; xu hướng nuôi bò nhốt, vỗ béo đang phát triển. Đàn lợn giảm do ảnh hưởng dịch tả lợn Châu Phi người chăn nuôi thận trọng, chưa tái đàn. Chăn nuôi gia cầm do giá bán sản phẩm ổn định, dịch bệnh trong thời gian qua ít xảy ra, mô hình nuôi gia cầm lấy trứng phát triển mạnh; nhiều trang trại, gia trại tăng quy mô nên tổng đàn tăng mạnh; hơn nữa, do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên nhiều hộ chăn nuôi lợn đã chuyển sang nuôi gà, vịt….
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng Mười Hai ước tính đạt 3.277 tấn, giảm 18,52% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 2.079 tấn, giảm 31,63%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý IV/2019 ước tính đạt 8.799 tấn, giảm 6,20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 5.175,9 tấn, giảm 23,50%. Tính chung năm 2019, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 41.167 tấn, tăng 2,36% so với năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 27.559 tấn, giảm 5,04%.
6.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp năm 2019 đã có những chuyến biến tích cực; ngành nông nghiệp và chính quyền các địa phương đã triển khai đồng bộ các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bằng việc huy động nhiều nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, sự nghiệp kinh tế tỉnh, nguồn vốn của các tổ chức, doanh nghiệp và người dân…Để thúc đẩy việc phát triển trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng từ gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Quảng Trị được đánh giá là tỉnh đi đầu trong cả nước về công tác xây dựng chứng chỉ rừng FSC với tổng diện tích được cấp 23.429 ha.
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Mười Hai ước tính đạt 1.096 ha, giảm 21,71% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 285 nghìn cây, tăng 185%; sản lượng gỗ khai thác 17.624 m3, tăng 13,56%; sản lượng củi khai thác 4.807 ste, tăng 3,24%. Quý IV/2019, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 8.700 ha, tăng 5,63% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 1.650 nghìn cây, giảm 7,82%; sản lượng gỗ khai thác 124.300 m3, tăng 32,47%; sản lượng củi khai thác 36.400 ste, tăng 50,83%. Tính chung năm 2019, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 9.320 ha, tăng 6,83% so với năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 2.500 nghìn cây, tăng 8,41%; sản lượng gỗ khai thác 945.000 m3, tăng 14,82%; sản lượng củi khai thác 255.000 ste, tăng 26,87%...Năm 2019, nhu cầu gỗ nguyên liệu cho sản xuất và xuất khẩu tăng; hơn nữa, rừng Quảng Trị theo khảo sát, trữ lượng gỗ trên 1 ha rừng trồng ngày càng tăng nên sản lượng gỗ khai thác tăng khá.
Thiệt hại rừng: Theo báo cáo của Chi cục kiểm lâm đến ngày 15/12/2019, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị cháy 86,4 ha, diện tích rừng bị thiệt hại 44,7 ha; giá trị thiệt hại 1.074,3 triệu đồng. Mặc dù trên địa bàn đã xảy ra 12 vụ cháy rừng, nhưng nhờ thực hiện tốt các biện pháp phòng cháy, tổ chức chữa cháy kịp thời, hiệu quả nên tỉnh Quảng Trị không để cháy lớn xảy ra.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong tháng, đã phát hiện và bắt giữ 08 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 12 vụ; lâm sản tịch thu 49,8 m3 gỗ các loại. Tính chung năm 2019, đã phát hiện và bắt giữ 216 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 211 vụ; lâm sản tịch thu 400,6 m3 gỗ các loại; 121,1 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
6.3. Thủy sản
Năm 2019, thời tiết khá thuận lợi cho hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Tỉnh tập trung chỉ đạo ngành thủy sản triển khai mạnh mẽ các chính sách phát triển thủy sản, đặc biệt là các chính sách khuyến khích ngư dân khai thác vùng biển xa; nuôi trồng thủy sản phát triển theo hướng bền vững, nuôi theo quy trình VietGap, nuôi hai giai đoạn nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao năng suất, sản lượng…nên sản lượng thủy sản tăng trưởng khá, nhất là khai thác thủy sản.
Diện tích nuôi trồng thủy sản tháng Mười Hai ước tính đạt 63,2 ha, tăng 78,02% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 37,90 ha, tăng 40,89%; nuôi tôm 25,30 ha, tăng 194,18%. Diện tích nuôi trồng thủy sản quý IV/2019 ước tính đạt 133 ha, tăng 3,91% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 37,9 ha, tăng 14,85%; nuôi tôm 95,1 ha, tăng 0,11%. Tính chung năm 2019, diện tích nuôi trồng thủy sản ước tính đạt 3.442,1 ha, tăng 0,87% so với năm trước; trong đó nuôi cá 2.163,1 ha, tăng 0,45%; nuôi tôm 1.255,6 ha, tăng 0,51%; nuôi thủy sản khác 23,5 ha, tăng 142,27%.
Sản lượng thủy sản tháng Mười Hai ước tính đạt 1.686,5 tấn, tăng 11,09% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 1.445,5 tấn, tăng 11,62%; tôm 86 tấn, tăng 4,24%; thủy sản khác 155 tấn, tăng 10,16%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 383 tấn, tăng 6,39%; bao gồm: cá 304 tấn, tăng 7,04%; tôm 79 tấn, tăng 3,95%. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 1.303,5 tấn, tăng 12,55%; bao gồm: cá 1.141,5 tấn, tăng 12,91%; tôm 7 tấn, tăng 7,69%; thủy sản khác 155 tấn, tăng 10,16%.
Sản lượng thủy sản quý IV/2019 ước tính đạt 7.207,7 tấn, tăng 6,34% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 5.194,4 tấn, tăng 14,74%; tôm 1.295,4 tấn, tăng 2,73%; thủy sản khác 717,9 tấn, giảm 27,48%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 2.077,3 tấn, tăng 6,64%; bao gồm: cá 807,9 tấn, tăng 12,99%; tôm 1.264,5 tấn, tăng 2,80%; thủy sản khác 4,9 tấn, tăng 63,33%. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 5.130,4 tấn, tăng 6,22%; bao gồm: cá 4.386,5 tấn, tăng 15,07%; tôm 30,9 tấn, giảm 0,32%; thủy sản khác 713 tấn, giảm 27,76%.
Tính chung năm 2019, sản lượng thủy sản ước tính đạt 35.891 tấn, tăng 11,36% so với năm trước; bao gồm: cá 26.351 tấn, tăng 12,47%; tôm 5.327 tấn, tăng 9,80; thủy sản khác 4.213 tấn, tăng 6,73%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 8.529 tấn, tăng 6,14% so với năm trước; bao gồm: cá 3.541 tấn, tăng 1,90%; tôm 4.960 tấn, tăng 9,44%; thủy sản khác 28 tấn, giảm 1,55%. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 27.362 tấn, tăng 13,10%; bao gồm: cá 22.810 tấn, tăng 14,30%; tôm 367 tấn, tăng 14,70%; thủy sản khác 4.185 tấn, tăng 6,79%.
7. Sản xuất công nghiệp
Ngành công nghiệp năm 2019 tăng trưởng khá, cao hơn mức tăng của năm 2018. Ngành sản xuất, phân phối điện do có những dự án điện gió, điện mặt trời, thủy điện…hoàn thành đi vào hoạt động nên tăng trưởng rất cao. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn giữ được vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 5,06% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,16%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,98%; sản xuất và phân phối điện tăng 6,79%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 7,13%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 12,37% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 7,43%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,58%; sản xuất và phân phối điện tăng 27,29%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,89%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý IV/2019 ước tính tăng 11,02% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,27%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,52%; sản xuất và phân phối điện tăng 20,01%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,50%.
Tính chung năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 9,88% so với năm trước (Năm 2018 tăng 9,16%); trong đó: ngành khai khoáng tăng 1,59%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,80%; sản xuất và phân phối điện tăng 19,74%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,35%.
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất năm 2019 so với năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 567,27%; dệt tăng 452,54%; sản xuất và phân phối điện tăng 19,74%; sản xuất trang phục tăng 17,80%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 11,19%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 11,06%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 10,38%; khai khoáng khác tăng 10,05%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 7,80%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 5,80%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 4,70%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 4,67%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 4,09%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 3,02%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 0,03%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 0,99%; khai thác quặng kim loại giảm 3,80%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 5,26%; sản xuất đồ uống giảm 6,29%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 13,27%.
Một số sản phẩm chủ yếu năm 2019 so với năm trước tăng cao: thủy hải sản chế biến tăng 54,73%; điện sản xuất tăng 27,01%; quần áo tăng 26,93%; điện thương phẩm tăng 17,38%; phân hóa học tăng 16,65%...Một số sản phẩm tăng thấp: đá xây dựng tăng 14,45%; dầu nhựa thông tăng 9,84%; gạch bằng xi măng, bê tông tăng 8,14%; dăm gỗ tăng 7,02%; tinh bột sắn tăng 5,19%; nước máy tăng 3,70%; tấm lợp proximăng tăng 2,63%; gạch xây dựng bằng đất sét nung tăng 1,91%; quặng zircon và tinh quặng zircon tăng 0,23%...Một số sản phẩm giảm: ván ép giảm 0,04%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp giảm 1,27%; nước hoa quả, tăng lực giảm 2,62%; gỗ cưa hoặc xẻ giảm 3,63%; săm dùng cho xe máy, xe đạp giảm 4,47%; xi măng giảm 6,01%; quặng inmenit và tinh quặng inmenit giảm 8,76%; quặng titan và tinh quặng titan khác giảm 15,60%; bia lon giảm 33,29%...
8. Thương mại, dịch vụ
8.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2019 khá sôi động; kinh tế của tỉnh duy trì được tốc độ tăng trưởng khá nên sức mua tiêu dùng của người dân tăng; hàng hóa trên thị trường phong phú về chũng loại, đa dạng về mẫu mã, chất lượng đảm bảo; đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người dân; hàng sản xuất trong nước chất lượng cao ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng; giá cả ổn định; mạng lưới siêu thị mini phát triển nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng…Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2019 tăng trưởng khá.
Trong năm 2019, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức thành công Hội chợ Xuân năm 2019, Hội chợ Thương mại và quảng bá Du lịch năm 2019…Các ngành chức năng tăng cường công tác quản lý thị trường; tổ chức các đoàn kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…nhằm bảo vệ người tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Hai ước tính đạt 2.444,49 tỷ đồng, tăng 1,76% so với tháng trước và tăng 11,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.060,19 tỷ đồng, tăng 1,67% và tăng 11,66%; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 281,81 tỷ đồng, tăng 2,25% và tăng 11,54%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,74 tỷ đồng, giảm 1,64% và tăng 10%; doanh thu dịch vụ khác đạt 99,75 tỷ đồng, tăng 2,51% và tăng 13,29%.
Quý IV/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tính đạt 7.242,79 tỷ đồng, tăng 11,86% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 6.118,57 tỷ đồng, tăng 12%; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 823,11 tỷ đồng, tăng 11,27%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 8,34 tỷ đồng, tăng 10,88%; doanh thu dịch vụ khác đạt 292,77 tỷ đồng, tăng 10,64%.
Tính chung năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tính đạt 29.778,49 tỷ đồng, tăng 10,77% so với năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 25.438,44 tỷ đồng, chiếm 85,42% tổng mức và tăng 10,67% so với năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá: hàng may mặc tăng 14,08%; gỗ và vật liêu xây dựng tăng 11,64%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 10,72%; lương thực, thực phẩm tăng 10,19%; phương tiện đi lại tăng 10,04%; xăng dầu các loại tăng 9,27%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 3.134,93 tỷ đồng, chiếm 10,52% tổng mức và tăng 11,68% so với năm trước; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 89,98 tỷ đồng, tăng 11,67%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.044,95 tỷ đồng, tăng 11,68%.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 35,06 tỷ đồng, chiếm 0,11% tổng mức và tăng 11,03% so với năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.170,06 tỷ đồng, chiếm 3,95% tổng mức và tăng 10,51% so với năm trước.
8.2. Hoạt động vận tải
Năm 2019, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội; cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ được đầu tư, kết nối thuận tiện giữa các địa phương; số lượng và chất lượng phương tiện vận tải được nâng lên; nhiều tuyến vận tải mới được đưa vào hoạt động; chất lượng dịch vụ được nâng lên với giá cả linh hoạt…Hoạt động vận tải tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng khá so với năm trước.
Doanh thu vận tải tháng Mười Hai ước tính đạt 129,26 tỷ đồng, tăng 0,56% so với tháng trước và tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 39,71 tỷ đồng, tăng 0,31% và tăng 7,59%; doanh thu vận tải hàng hóa 81,27 tỷ đồng, tăng 0,48% và tăng 13,77%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 8,28 tỷ đồng, tăng 2,58% và tăng 37,31%. Tính cả quý IV/2019 doanh thu vận tải ước tính đạt 384,43 tỷ đồng, tăng 12,13% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 121,79 tỷ đồng, tăng 10%; doanh thu vận tải hàng hóa 238,26 tỷ đồng, tăng 11,34%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 24,38 tỷ đồng, tăng 34,40%. Tính chung năm 2019, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.510,99 tỷ đồng, tăng 10,90% so với năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 499,90 tỷ đồng, tăng 9,68%; doanh thu vận tải hàng hóa 921,87 tỷ đồng, tăng 10,30%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 89,22 tỷ đồng, tăng 25,87%.
Số lượt hành khách vận chuyển tháng Mười Hai ước tính đạt 651,88 nghìn HK, tăng 0,96% so với tháng trước và tăng 7,37% so với cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 59,88 triệu HK.km, tăng 1,16% và tăng 13,55%. Tính cả quý IV/2019, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.940,88 nghìn HK, tăng 6,58% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 176,99 triệu HK.km, tăng 11,87%. Tính chung năm 2019, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 7.792,21 nghìn HK, tăng 3,91% so với năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 694,63 triệu HK.km, tăng 6,52%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng Mười Hai ước tính đạt 834,64 nghìn tấn, tăng 0,88% so với tháng trước và tăng 6,36% so với cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 65,84 triệu tấn.km, tăng 1,65% và tăng 11,46%. Tính cả quý IV/2019, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 2.520,60 nghìn tấn, tăng 8,32% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 195,06 triệu tấn.km, tăng 11,26%. Tính chung năm 2019, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 9.573,50 nghìn tấn, tăng 4,22% so với năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 740,04 triệu tấn.km, tăng 6,94%.
8.3. Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Năm 2019, tỉnh Quảng Trị diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng; một số sản phẩm du lịch mới được hình thành; hệ thống các cơ sở kinh doanh du lịch phát triển nhanh…đã thu hút một lượng khách lớn đến với Quảng Trị; hơn nữa, để từng bước phát triển Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn tỉnh đã phối hợp với các tỉnh trong vùng và các địa phương trên tuyến hành lang kinh tế Đông Tây tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá về du lịch …nên khách lưu trú và du lịch lữ hành tăng trưởng khá.
Số lượt khách lưu trú tháng Mười Hai ước tính đạt 39.968 lượt, tăng 0,31% so với tháng trước và tăng 8,76% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú ước tính đạt 37.408 ngày khách, tăng 0,69% và tăng 8,36%. Tính chung năm 2019, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 456.474 lượt, tăng 9,04% so với năm trước; số ngày khách lưu trú ước tính đạt 427.383 ngày khách, tăng 10,15%.
Số lượt khách du lịch theo tour tháng Mười Hai ước tính đạt 1.406 lượt, giảm 1,46% so với tháng trước và tăng 10,69% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour ước tính đạt 3.481 ngày khách, giảm 1,02% và tăng 10,06%. Tính chung năm 2019, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 17.896 lượt, tăng 10,69% so với năm trước; số ngày khách du lịch theo tour ước tính đạt 44.500 ngày khách, tăng 10,21%.
8.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông
Năm 2019, các nhà mạng thúc đẩy cạnh tranh; các công ty viễn thông đa dạng hóa các gói dịch vụ, nâng cấp băng thông cho thiết bị di động…phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 178 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 59 bưu cục cấp 2 và 3, 01 bưu cục hệ 1, có 109 bưu điện văn hóa xã, 9 đại lý chuyển phát, 8 thùng thư công cộng độc lập. Có 94/141 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày.
Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) là 2.310 trạm (828 trạm 2G, 967 trạm 3G, 515 trạm 4G).
Ước tính đến 31/12/2019, toàn tỉnh hiện có 626.164 thuê bao điện thoại, tăng 0,14% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 11.012 thuê bao cố định, giảm 22,55% và 615.152 thuê bao di động, tăng 0,67%. Số thuê bao Internet hiện có là 80.200 thuê bao, tăng 9,89% so với cùng thời điểm năm trước.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Dân số, lao động, việc làm
Dự ước dân số trung bình năm 2019 là 633.440 người, tăng 0,59% so với năm 2018; trong đó: nam 314.056 người, chiếm 49,57%, tăng 0,63%; nữ 319.384 người, chiếm 50,43%, tăng 0,54%; thành thị 196.372 người, chiếm 31%, tăng 1,62%; nông thôn 437.068 người, chiếm 69%, tăng 0,13%. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản được tăng cường. Năm 2019 ước tỷ lệ sinh 15,70%0, giảm 0,53%0 so với năm 2018; tỷ lệ chết 7,20%0, giảm 1,44%0; tỷ lệ tăng tự nhiên dân số 8,50%0, tăng 0,95%0.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính là 351.057 người, chiếm 55,42% đân số và tăng 0,36% so với năm trước; trong đó: nam 177.806 người, chiếm 50,64%, tăng 0,28%; nử 173.251 người, chiếm 49,36%, tăng 0,43%. Lực lượng lao động khu vực thành thị 98.930 người, chiếm 28,18%, tăng 0,41%; khu vực nông thôn 252.127 người, chiếm 71,82%, tăng 0,34%.
Năm 2019, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề được 15.423 người (Cao đẳng 209 người, Trung cấp 1.048 người, sơ cấp và đào tạo thường xuyên 14.166 người). Ước đến cuối năm 2019, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%, qua đào tạo nghề đạt 42,38%, qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 30%.
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính là 341.052 người, chiếm 97,15% lực lượng lao động của tỉnh và tăng 0,73% so với năm 2018; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 143.856 người, chiếm 42,18%, giảm 3,69%; khu vực công nghiệp và xây dựng 66.335 người, chiếm 19,45%, tăng 6,56%; khu vực dịch vụ 130.862 người, chiếm 38,37%, tăng 3,05%. Như vậy, lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã chuyển dịch sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa…
Ước tính năm 2019 toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho khoảng 13.500 lượt lao động; trong đó: xuất khẩu lao động 1.950 lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2019 ước tính 3% (Năm 2018 tỷ lệ này là 3,17%). Nhìn chung năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp tuy còn cao nhưng có giảm so với năm 2018; nguyên nhân chủ yếu là do các ngành kinh tế phát triển khá (GRDP tăng 7,72%), công tác đào tạo nghề và giới thiệu việc làm được quan tâm.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 7,72%. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng; đã có 60 xã (đạt 51,3%) và 01 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở vật chất văn hóa, trường học được đầu tư xây mới, cải tạo đạt chuẩn; chính sách cho vay ưu đãi hộ nghèo, hộ cận nghèo, hổ trợ giống cây trồng, vật nuôi…giúp nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Nhìn chung năm 2019 đời sống dân cư nói chung và đặc biệt là đời sống dân cư khu vực nông thôn được cải thiện đáng kể, tình hình thiếu đói khu vực nông thôn không xảy ra.
Theo Nghị định số 157/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động áp dụng từ ngày 01/01/2019 tăng thêm từ 160.000-200.000 đồng/tháng. Theo Nghị định số 38/2019/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; từ ngày 01/7/2019, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng tăng thêm 100.000 đồng/tháng so với mức lương cũ. Nhìn chung đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các doanh nghiệp được cải thiện so với năm trước.
Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Tính đến nay, toàn tỉnh có 35.165 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019, đã trao tặng 88.298 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác với tổng kinh phí là 37.937 triệu đồng. Nhân dịp Kỷ niệm 72 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ, đã trao tặng 19.935 suất quà với tổng kinh phí 9.205 triệu đồng cho người có công, gia đình chính sách người có công. Khởi công xây mới 66 nhà tình nghĩa với tổng số tiền 3.930 triệu đồng, sửa chữa 10 nhà tình nghĩa với số tiền 157 triệu đồng; từ nguồn quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, trao tặng 26 sổ tiết kiệm trị giá 150 triệu đồng cho các gia đình chính sách, người có công tiêu biểu trong toàn tỉnh. Hổ trợ đột xuất tiền và quà cho các đối tượng chính sách, người có công trị giá 20.692 triệu đồng. Phân bổ 480 tấn gạo của Chính phủ hỗ trợ cho các hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn ở 2 huyện miền núi vùng dân tộc thiểu số trong kỳ giáp hạt năm 2019.
Thực hiện cấp 282.622 thẻ Bảo hiểm y tế /sổ, thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho tất cả các đối tượng được phát miễn phí.
Tỉnh đã triển khai thực hiện đồng bộ, kịp thời và hiệu quả các chính sách, dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, giúp người nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn ưu đãi phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, được chăm sóc sức khỏe và được giáo dục nghề nghiệp qua đó tạo được sinh kế và giúp các đối tượng này cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập. Đến nay “Quỹ vì người nghèo” các cấp trong tỉnh đã huy động được trên 18.203 triệu đồng và đã hổ trợ xây dựng 311 nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo trị giá 11.269 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đầu năm 2019 là 16.723 hộ, chiếm tỷ lệ 9,68%; đến cuối năm 2019, qua khảo sát số hộ nghèo toàn tỉnh còn lại 13.998 hộ, tỷ lệ 8,03%. Như vậy năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm 2.725 hộ, tỷ lệ 1,65%.
3. Giáo dục, đào tạo
Năm học 2018-2019, thực hiện Kế hoạch số 84-KH/TU, Kế hoạch số 86-KH/TU của Tỉnh ủy và Quyết định số 1322/QĐ-UBND của UBND tỉnh, ngành Giáo dục và Đào tạo đã tích cực tổ chức rà soát sắp xếp lại quy mô, mạng lưới trường lớp học.
Năm học 2018-2019, có 10.998 học sinh được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học, đạt 99,45%, giảm 0,19% so với năm học trước; có 10.344 học sinh đạt tiêu chuẩn tốt nghiệp THCS, đạt 99,71%, giảm 0,1%; có 6.625 học sinh tốt nghiệp THPT, đạt 89,93%, giảm 5,22%; có 107 học sinh tốt nghiệp bổ túc THPT, đạt 67,72%, giảm 18,29%.
Năm học 2018-2019, toàn tỉnh có 475 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,38%, giảm 0,14% so với năm học 2017-2018; trong đó cấp tiểu học có 15 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,03%; cấp THCS có 174 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,4%; cấp THPT có 286 học sinh bỏ học, tỷ lệ 1,19%.
Kỳ thi học sinh giỏi văn hoá THPT cấp quốc gia năm 2019, tỉnh Quảng Trị đạt 25 giải, chiếm tỷ lệ 46,29%, tăng 09 giải so với năm 2018. Tham gia Kỳ thi Olympic Hình học Iran năm 2018, có 02 học sinh đạt giải (01HCB, 01HCĐ); có 01 học sinh đạt HCB môn Tin học Olympic Châu Á – Thái Bình Dương
Tính đến thời điểm 31/5/2019, toàn tỉnh có 195/411 trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 47,7%; trong đó: cấp mầm non có 80 trường, cấp tiểu học 47 trường, cấp THCS 36 trường, loại hình trường TH&THCS có 24 trường và cấp THPT 08 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Năm học 2019-2020, Ngành giáo dục đào tạo tỉnh tiếp tục tập trung thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; là năm học chuẩn bị các điều kiện cơ bản để triển khai chương trình, sách giáo khoa mới từ năm học 2020-2021…
Năm học 2019-2020, tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học ở cấp tiểu học (6-10 tuổi) ước đạt 99,9%. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học ở cấp THCS (11-14 tuổi) đạt 95%. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học ở cấp THPT (15-17 tuổi) đạt 85,97%.
Đầu năm học 2019-2020, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 227 trường học, giảm 18 trường so với năm học trước. Số lớp học có 4.477 lớp, tăng 20 lớp. Số học sinh phổ thông có 129.114 HS, tăng 2,1%. Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 7.825 GV, tăng 1,61%. Giáo dục mầm non có 169 trường mầm non, tăng 01 trường so với năm học trước. Nhà trẻ có 406 nhóm trẻ, tăng 8,85%; 6.896 cháu, tăng 4,88%; 645 cô nuôi dạy trẻ, tăng 3,53%. Mẫu giáo có 1.329 lớp, tăng 2,47%; 35.129 HS, giảm 0,34%; 2.377 GV, giảm 0,17%.
4. Y tế
4.1. Tình hình khám, chữa bệnh
Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 162 cơ sở y tế, bằng năm trước (20 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 cơ sở y tế khác); có 2.025 giường bệnh (không kể trạm xá), bằng năm trước.
Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng chuyên môn; có 2.815 cán bộ ngành y, tăng 1,30% so với năm trước; trong đó có 622 bác sĩ trở lên, tăng 1,97%; có 215 cán bộ ngành dược, tăng 1,90%; trong đó có 55 dược sỹ cao cấp trở lên, tăng 5,77%.
Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Năm 2019 ước tính có 997.349 lượt người khám bệnh, tăng 9,60% so với năm trước; 126.580 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, tăng 4,54%; số ngày điều trị nội trú 840.570 ngày, tăng 4,92%. Trong dịp Lễ Tết, nhất là Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019; Tỉnh đã chỉ đạo các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh trực 24/24 giờ, bảo đảm đủ nhân lực, thuốc, trang thiết bị, phương tiện để xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu tai nạn giao thông, ngộ độc, sinh đẻ. Đối với các bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện trong dịp Tết, tổ chức chăm sóc, phục vụ chu đáo người bệnh còn nằm lại điều trị cả về vật chất và tinh thần; đặc biệt, tổ chức thăm hỏi, chúc Tết những người bệnh thuộc diện chính sách và người nghèo.
4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tháng Mười Hai, trên địa bàn tỉnh có 1.089 trường hợp mắc bệnh cúm, 11 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 40 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 08 trường hợp mắc bệnh quai bị, 13 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 121 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 04 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut...Tính chung năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 9.722 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 15,87% so với năm trước; 210 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 35,38%; 483 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 24,53%; 143 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 41,63%; 198 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, giảm 62%; 1.716 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 7,84%; 108 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 30,32%...Nhìn chung, hầu hết các loại dịch bệnh đều giảm so với năm trước; không có trường hợp tử vong do dịch bệnh. Bệnh sốt xuất huyết diễn biến phức tạp, gia tăng nhanh trên địa bàn tỉnh; trong tháng có 1220 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; tính chung năm 2019, toàn tỉnh có 5.743 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, chưa có trường hợp nào tử vong.
Trong tháng, đã phát hiện thêm 01 trường hợp nhiễm HIV/AIDS. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 232 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ). Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 96 người.
Trong năm 2019, trên địa bàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm lớn nào xảy ra; chỉ xảy ra một số vụ ngộ độc thức ăn nhẹ đã được kịp thời cứu chữa.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao
Thực hiện tốt công tác khánh tiết, tuyên truyền, cổ động trực quan; tổ chức tốt các ngày lễ kỷ niệm, lễ hội của quê hương, đất nước đảm bảo trang trọng, an toàn, tiết kiệm, thiết thực, hiệu quả, để lại ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân và bè bạn trong và ngoài nước. Tiêu biểu là các hoạt động Kỷ niệm 30 năm lập lại tỉnh (01/7/1989 - 01/7/2019): Chương trình Lễ kỷ niệm 30 năm lập lại tỉnh Quảng Trị; Liên hoan tiếng hát “Đường 9 xanh”; Liên hoan nghệ thuật quần chúng tỉnh Quảng Trị - năm 2019; Đăng cai tổ chức Giải vô địch đua thuyền truyền thống toàn quốc năm 2019; Giải Vô địch cử tạ trẻ toàn quốc năm 2019; Xuất bản tập sách ảnh “Quảng Trị - 30 năm đổi mới và phát triển”… Tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Lễ hội “Thống nhất non sông – năm 2019”, tiêu biểu như: Chương trình nghệ thuật "Khát vọng hòa bình"; Lễ Thượng cờ, Hội Bài chòi, Giải đua thuyền truyền thống. Phối hợp tổ chức thành công Giải thưởng mỹ thuật thiếu nhi Việt nam tỉnh Quảng Trị lần thứ XI, năm 2019.
Nhiều hoạt động lễ hội truyền thống dân gian đã được tổ chức tốt tại các địa phương trong tỉnh như: Lễ hội Chợ đình Bích La (Triệu Phong); Ném cù, Hội thi Đan troi - Chẻ đá (Gio Linh); Hội Bài chòi (Vĩnh Linh); Hội vật cổ truyền, kéo co, trò chơi dân gian, Lễ hội cầu ngư và hội vật Trung An, Thâm Khê (Hải Lăng)...
Năm 2019, Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh tổ chức 38 buổi diễn phục vụ (Biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị 20 buổi; biểu diễn doanh thu 18 buổi), thu hút trên 20.000 lượt người xem; Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh đã tổ chức 187 buổi chiếu phim với hơn 48.000 lượt người xem.
Đoàn nghệ thuật quần chúng Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh tham gia hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” các tỉnh Bắc miền Trung được tổ chức tại Quảng Bình đạt giải Nhì tại hội diễn.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; quản lý về gia đình đạt nhiều kết quả tích cực, gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị. Đến nay, toàn tỉnh có 152.904/168.043 gia đình được công nhận gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 90,9%; Có 1.043/1.082 làng, bản, khu phố được công nhận văn hóa, đạt tỷ lệ 96,4%; Có 981/1044 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 93,9%; Có 13/13 phường đã đăng ký phát động "Phường đạt chuẩn văn minh đô thị", 11 thị trấn/10 huyện đăng ký phát động "Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”; có 6/24 thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; Có 57/117 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, 58/117 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 104/141 xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa- trung tâm thể thao, đạt tỷ lệ 73,7%; 998/1082 làng, bản, khu phố có nhà văn hóa, khu thể thao, đạt tỷ lệ 92,5%.
Thể dục thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động và đạt nhiều thành tích. Đến nay, tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 31,7%; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 26,3%; có 785 câu lạc bộ và điểm tập TDTT trên địa bàn tỉnh, có 02 liên đoàn và hiệp hội. Công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học được chú trọng, chất lượng phong trào được nâng lên rõ rệt: 100% các trường THCS, THPT tổ chức giảng dạy nội khoá, 100% số trường tổ chức giảng dạy ngoại khoá có nề nếp.
Đoàn thể thao người khuyết tật tỉnh tham gia tập huấn và thi đấu Giải Điền kinh và môn Bơi người khuyết tật toàn quốc tại thành phố Cần Thơ năm 2019, kết quả đạt được 38 huy chương (17HCV, 16HCB và 5HCĐ); Đoàn thể thao dân tộc thiểu số tỉnh tham gia Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc tại tỉnh Bắc Kạn năm 2019, kết quả xếp thứ 3 toàn đoàn ở nội dung môn Bóng đá nam; Chỉ đạo, phối hợp tổ chức thành công các giải thể thao như: Giải Bóng đá nam U11 Cúp QRTV Quảng Trị lần thứ V, năm 2019; Giải Việt dã tỉnh Quảng Trị năm 2019 “Cùng Sacombank chạy vì sức khỏe cộng đồng”; Giải Điền kinh người khuyết tật tỉnh Quảng Trị năm 2019; Giải Bóng đá Báo Quảng Trị năm 2019 - Cúp Trường Sơn; Giải Bóng chuyền nữ tỉnh Quảng Trị năm 2019; Tổ chức Lễ phát động toàn dân tập luyện môn Bơi phòng chống đuối nước…
Công tác xã hội hóa thể dục thể thao tiếp tục được đẩy mạnh, thiết chế TDTT tại cơ sở được quan tâm đầu tư. Toàn tỉnh hiện có 02 nhà thi đấu thể thao cấp tỉnh, 4 nhà thi đấu cấp huyện, thị có quy mô từ 1.000 - 2000 chỗ ngồi, 04 sân vận động có khán đài, 200 sân điền kinh, 282 sân bóng đá, 423 sân bóng chuyền, 35 sân quần vợt, 12 bể bơi, 07 nhà tập cầu lông, 08 nhà tập bóng bàn và 335 sân tập các môn thể thao khác; 14 nhà tập luyện và thi đấu TDTT ở các Sở, ban, ngành, 09 nhà tập luyện TDTT ở các trường THPT…
Thể dục thể thao thành tích cao được quan tâm. Các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ duy trì tập luyện và thi đấu thường xuyên theo kế hoạch. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh là 135 VĐV, gồm: 25 VĐV đội tuyển tỉnh, 22 VĐV đội tuyển trẻ và 88 VĐV năng khiếu.
Năm 2019, các đội tuyển đã tham gia thi đấu 24 giải thể thao toàn quốc; đạt 67 huy chương các loại, gồm: 17 HCV, 21 HCB và 29 HCĐ.
6. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Ban ATGT tỉnh, năm 2019 tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh giảm cả 3 tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương.
Tháng Mười Hai (Từ 16/11 đến 15/12/2019), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ tai nạn giao thông, làm chết 07 người, bị thương 09 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông bằng cùng kỳ, số người chết tăng 133,33 (+04 người), số người bị thương giảm 18,19% (-02 người).
Tính cả quý IV/2019 (Từ 16/9 đến 15/12/2019), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 46 vụ tai nạn giao thông, làm chết 35 người, bị thương 36 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 6,98% (+03 vụ), số người chết tăng 66,67% (+14 người), số người bị thương giảm 14,29% (-06 người).
Tính chung, năm 2019 (Từ 16/12/2018 đến 15/12/2019) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 158 vụ tai nạn giao thông, làm chết 118 người, bị thương 113 người; so với năm trước số vụ giảm 17,28% (-33 vụ), số người chết giảm 0,84% (-01 người), số người bị thương giảm 22,60% (-33 người).
Trong số vụ tai nạn giao thông xảy ra trong năm 2019; đường bộ xảy ra 155 vụ, làm chết 116 người, bị thương 111 người; đường sắt xảy ra 03 vụ, làm chết 02 người, bị thương 02 người.
7. Phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, đã xảy ra 07 vụ cháy; giá trị tài sản thiệt hại ước tính 13.025 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 192 vụ cháy, tăng 186,56% (+125 vụ) so với năm trước; làm 01 người chết, 02 người bị thương; tổng giá trị tài sản thiệt hại 28.175 triệu đồng, tăng 444,90%. Năm 2019, tình hình cháy xảy ra nhiều do hạn hán kéo dài trong mùa Hè.
Trong tháng, các ngành chức năng đã phát hiện 11 vụ vi phạm môi trường; xử phạt 10 vụ với số tiền xử phạt 42,7 triệu đồng. Tính chung, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 202 vụ vi phạm môi trường, tiến hành xử phạt 185 vụ với tổng số tiền xử phạt 722,7 triệu đồng.
Năm 2019, trên địa bàn tỉnh hiện tượng thời tiết cực đoan như: bảo, áp thấp nhiệt đới, lốc xoáy, sét, mưa lớn…đã làm thiệt hại về người và tài sản của người dân một số địa phương trong tỉnh. Thiên tai đã làm 01 người chết, 02 người bị thương; giá trị tài sản thiệt hại ước tính hơn 288 tỷ đồng. Ngay sau khi thiên tai xảy ra, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương đã về địa bàn xảy ra thiên tai kiểm tra, thăm hỏi, động viên các hộ gia đình có người thân chết, bị thương và thiệt hại tài sản; nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống nhân dân.
Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội quý IV và cả năm 2019 tỉnh Quảng Trị./.
► Số liệu KT-XH Quý IV và năm 2019
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ
Trong đó có 202 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 21 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 696 người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, hộ nghèo; 14.207 người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên; 1.407 đối tượng đơn thân nuôi nhỏ, hộ nghèo; 15.021 người khuyết tật; 3.564 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT ĐB nặng; 47 hộ gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em không nơi nương tựa.