Kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị 9 tháng năm 2019 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại và tiềm ẩn nhiều rủi ro; thương mại và đầu tư thế giới giảm. Xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch; giá dầu và đông Đô la Mỹ diễn biến phức tạp cũng là thách thức đối với kinh tế thế giới và ảnh hưởng xấu tới kinh tế Việt Nam. Trong nước, tình hình kinh tế 9 tháng tiếp tục chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; ngành chăn nuôi gặp khó khăn do dịch tả lợn Châu Phi ngày càng lây lan trên diện rộng; một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng trưởng chậm lại; giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp…
Năm 2019, tỉnh Quảng Trị thực hiện phương châm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy: “Trách nhiệm, kỷ cương, tăng tốc, phát triển” để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Đồng thời, thực hiện Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ, Kết luận số 137-KL/TU ngày 30/11/2018 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 17/2018/NQ-HĐND ngày 08/12/2018 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019; Ngay từ đầu năm, các ngành, các địa phương đã triển khai thực hiện kịp thời, quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong năm 2019 nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ và đạt kết quả tích cực trên nhiều ngành và lĩnh vực:
I. KINH TẾ
1. Tài chính, ngân hàng
1.1. Tài chính
Năm 2019, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về thực hiện chính sách tài khoá chủ động, chặt chẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách; tỉnh đã thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách, kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa cần thiết…Tích cực tìm các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, nuôi dưỡng và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Đẩy mạnh công tác thu, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định; hạn chế tình trạng nợ đọng thuế. Nhìn chung, tình hình thu, chi ngân sách 9 tháng năm 2019 đạt được những kết quả tích cực; thu ngân sách khả quan hơn, chi ngân sách tương đối ổn định.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/9/2019 đạt 2.032 tỷ đồng, bằng 70,07% dự toán địa phương năm 2019 và tăng 18,39% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.687,92 tỷ đồng, bằng 65,68% dự toán và tăng 12,09%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 331,93 tỷ đồng, bằng 100,59% dự toán và tăng 64,54%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: thu tiền sử dụng đất 491,86 tỷ đồng, tăng 22,48% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 471,72 tỷ đồng, tăng 6,44%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 177,67 tỷ đồng, tăng 2,90%; thuế bảo vệ môi trường 148,24 tỷ đồng, tăng 25,78%; lệ phí trước bạ 110,01 tỷ đồng, tăng 22,17%; thuế thu nhập cá nhân 71,42 đồng, tăng 36,93%...
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/9/2019 đạt 5.041,81 tỷ đồng, bằng 63,77% dự toán địa phương năm 2019 và tăng 10,97% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.758,99 tỷ đồng, bằng 157,42% dự toán và tăng 23,64%; chi thường xuyên 3.261,82 tỷ đồng, bằng 70,28% dự toán và tăng 5,82%. Trong tổng chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.402,39 tỷ đồng, tăng 7,68% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 790,31 tỷ đồng, tăng 5,37%; chi sự nghiệp kinh tế 330,69 tỷ đồng, tăng 20,23%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 286,15 tỷ đồng, giảm 2,27%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 179,84 tỷ đồng, tăng 9,12%...
Thu, chi ngân sách nhà nước
|
Thực hiện đến 18/9/2019
( Tỷ đồng)
|
Thực hiện đến 18/9/2019 so với dự toán
năm 2019 (%)
|
Thực hiện đến 18/9/2019 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
1. Tổng thu NSNN trên địa bàn
|
2.032,00
|
70,07
|
118,39
|
TĐ: - Thu nội địa
|
1.687,92
|
65,68
|
112,09
|
- Thu từ hoạt động XNK
|
331,93
|
100,59
|
164,54
|
2. Tổng chi NSNN địa phương
|
5.041,81
|
63,77
|
110,97
|
TĐ: - Chi đầu tư phát triển
|
1.758,99
|
157,42
|
123,64
|
- Chi thường xuyên
|
3.261,82
|
70,28
|
105,82
|
1.2. Ngân hàng
Chín tháng năm 2019, ngành Ngân hàng triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 08/01/2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng năm 2019. Một số Chương trình tín dụng trọng điểm trong năm 2019 là: cho vay nông nghiệp, nông thôn; cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; hổ trợ lãi suất vốn vay phát triển sản xuất, kinh doanh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015-2020; Chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp; Chương trình tín dụng phục vụ thủy sản theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP…
Lãi suất trên địa bàn Quảng Trị trong quý III và 9 tháng năm 2019 cơ bản ổn định, thị trường tiền tệ ổn định.
Huy động vốn trên địa bàn đến 15/9/2019 đạt 21.877 tỷ đồng, tăng 7,31% (+1.491 tỷ đồng) so với cuối năm 2018. Cơ cấu tiền gửi: tiền gửi tiết kiệm 16.877 tỷ đồng, chiếm 77,14%, tăng 11,69% (+1.766 tỷ đồng) so với cuối năm 2018; tiền gửi thanh toán 3.051 tỷ đồng, chiếm 13,94%, tăng 4,17% (+122 tỷ đồng); huy động khác 1.465 tỷ đồng, chiếm 6,69%, giảm 25,03% (-489 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 484 tỷ đồng, chiếm 2,23%, tăng 23,47% (+92 tỷ đồng).
Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 15/9/2019 đạt 34.087 tỷ đồng, tăng 8,63% (+2.709 tỷ đồng) so với cuối năm 2018. Dư nợ cho vay phân theo thời hạn: dư nợ cho vay ngắn hạn 14.889 tỷ đồng, chiếm 43,67%, tăng 7,29% (+1.012 tỷ đồng) so với cuối năm 2018; dư nợ cho vay trung và dài hạn 19.198 tỷ đồng, chiếm 56,33%, tăng 9,7% (+1.697 tỷ đồng).
Nợ xấu đến 15/9/2019 là 345 tỷ đồng, chiếm 1,01% tổng dư nợ.
2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2019 tăng thấp hơn mức tăng của 9 tháng năm 2018. Giá một số nhóm hàng tăng cao làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng như: nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng do điều chỉnh giá dịch vụ y tế; nhóm giáo dục tăng do tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên giá thịt lợn tăng kéo theo một số loại thực phẩm khác tăng, hạn hán kéo dài nên giá một số loại rau quả tăng…Tuy nhiên, vẫn có một số nhóm hàng giảm làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng chậm lại như: nhóm giao thông giảm do giá xăng, dầu điều chỉnh giảm; nhóm bưu chính viễn thông giảm…
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín tăng 0,65% so với tháng trước, tăng 2,57% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,55% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III/2019 tăng 2,27% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung, chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2019, tăng 1,73% so với bình quân cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2018 tăng 2,40%). Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là: giao thông giảm 0,95%; bưu chính viễn thông giảm 0,24%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,18%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,77%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,17%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,30%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,87%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,96%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,60% (lương thực tăng 2,25%, thực phẩm tăng 3,12%, ăn uống ngoài gia đình tăng 1,81%); giáo dục tăng 4,16%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,45%.
Chỉ số giá vàng tháng Chín tăng 3,92% so với tháng trước; tăng 19,37% so với tháng 12 năm trước và tăng 21,77% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý III/2019 tăng 15,72% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, chỉ số giá vàng bình quân 9 tháng năm 2019 tăng 4,91% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ Chín giảm 0,03% so với tháng trước; giảm 0,82% so với tháng 12 năm trước và giảm 0,70% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý III/2019 giảm 0,15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng năm 2019 tăng 1,29% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và đô la Mỹ
|
Tháng 9/2019 so với
|
BQ quý III/2019 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
BQ 9 th 2019 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tháng 9/2018
(%)
|
Tháng 12/2018
(%)
|
Tháng 8/2019
(%)
|
1. Chỉ số giá tiêu dùng
|
102,55
|
102,57
|
100,65
|
102,27
|
101,73
|
2. Chỉ số giá vàng
|
121,77
|
119,37
|
103,92
|
115,72
|
104,91
|
3. Chỉ số giá đô la Mỹ
|
99,30
|
99,18
|
99,97
|
99,85
|
101,29
|
3. Đầu tư và xây dựng
3.1. Đầu tư
Năm 2019, tình hình đầu tư trên địa bàn tỉnh vẫn gặp một số khó khăn: tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ của Chính phủ, nguồn vốn ngân sách tỉnh hạn hẹp, năng lực của doanh nghiệp và hộ dân cư hạn chế; tuy nhiên, năm 2019 thực hiện phương châm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy: “Trách nhiệm, kỷ cương, tăng tốc, phát triển” để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra và thiết thực Kỷ niệm 30 năm Ngày tái lập tỉnh. Tỉnh Quảng Trị đã có những đột phá trong quảng bá, xúc tiến, thu hút vốn đầu tư; nhiều chương trình/dự án được cấp phép, khởi công mới, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trong năm 2019. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành đã có nhiều nổ lực tập trung tháo gở khó khăn, đẩy nhanh tiến độ giải ngân theo chỉ đạo của Chính phủ…vì vậy, vốn đầu tư thực hiện trong 9 tháng năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý III/2019 (giá hiện hành) ước tính đạt 4.654,84 tỷ đồng, tăng 15,46% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn khu vực nhà nước đạt 1.617,03 tỷ đồng, tăng 22,78%; vốn khu vực dân cư và tư nhân đạt 2.822,33 tỷ đồng, tăng 6,76%; vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 215,48 tỷ đồng, tăng 204,54%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý III/2019, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 732,04 tỷ đồng, giảm 10,97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 572,33 tỷ đồng, giảm 15,73%; vốn ngân sách huyện đạt 135,60 tỷ đồng, tăng 13,32%; vốn ngân sách xã đạt 24,11 tỷ đồng, tăng 2,93%.
Tính chung, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2019 (giá hiện hành) ước tính đạt 11.446,25 tỷ đồng, tăng 28,08% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn khu vực nhà nước đạt 3.566,53 tỷ đồng, tăng 23,74%; vốn khu vực dân cư và tư nhân đạt 7.468,36 tỷ đồng, tăng 25,62%; vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 411,36 tỷ đồng, tăng 276,66%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 9 tháng năm 2019, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.667,44 tỷ đồng, bằng 74,67% kế hoạch năm 2019 và giảm 9,23% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 1.220,93 tỷ đồng, bằng 74,71% kế hoạch và giảm 19,04%; vốn ngân sách huyện đạt 385,38 tỷ đồng, bằng 73,95% kế hoạch và tăng 41,50%; vốn ngân sách xã đạt 61,13 tỷ đồng, bằng 78,55% kế hoạch và tăng 7,80%.
Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2019, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 8.666,87 tỷ đồng, tăng 24,75% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản đạt 1.493,14 tỷ đồng, tăng 43,54%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ đạt 1.113,14 tỷ đồng, tăng 40,42%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động đạt 110,59 tỷ đồng, tăng 11,56%; vốn đầu tư phát triển khác đạt 62,51 tỷ đồng, tăng 8,63%.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
|
Ước thực hiện quý III/2019 ( Tỷ đồng)
|
Ước 9 tháng năm 2019 (Tỷ đồng)
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Quý III/2019
|
9 th năm 2019
|
Tổng số
|
4.654,84
|
11.446,25
|
115,46
|
128,08
|
Vốn khu vực Nhà nước
|
1.617,03
|
3.566,53
|
122,78
|
123,74
|
Vốn khu vực dân cư và tư nhân
|
2.822,33
|
7.468,36
|
106,76
|
125,62
|
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
|
215,48
|
411,36
|
304,54
|
376,66
|
Vốn FDI: Trong 9 tháng năm 2019, nhiều nhà đầu tư các nước trong khu vực và trên thế giới đến khảo sát, làm việc và tìm cơ hội đầu tư tại tỉnh Quảng Trị; tuy nhiên, vẫn chưa có dự án FDI đăng ký đầu tư mới. Hiện nay có 13 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 52,53 triệu USD. Vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI trong 9 tháng năm 2019 ước tính đạt 411,36 tỷ đồng, tăng 276,66% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý là Công ty TNHH cao su Camel Việt Nam đã đầu tư dây chuyền 2 sản xuất săm lốp thực hiện đầu tư trong 9 tháng năm 2019 là 350 tỷ đồng.
Vốn ODA: Trong 9 tháng năm 2019, có 01 dự án ODA được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư với tổng vốn đầu tư 151,16 tỷ đồng. Hiện nay trên địa bàn có 24 dự án ODA đang thực hiện được bố trí vốn là 1.444,66 tỷ đồng (Vốn nước ngoài 1.209,47 tỷ đồng, vốn đối ứng 235,19 tỷ đồng). Dự ước vốn ODA thực hiện 9 tháng năm 2019 đạt 571,37 tỷ đồng, giảm 30,81% so với cùng kỳ năm trước.
Về tiến độ giải ngân vốn: Đến 31/8/2019, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 1.563,17 tỷ đồng, đạt 58,78% kế hoạch năm 2019; trong đó: nguồn vốn ngân sách địa phương quản lý thực hiện 1.450 tỷ đồng, đạt 63,16% kế hoạch.
3.2. Xây dựng
Chín tháng năm 2019, công tác xúc tiến, thu hút đầu tư của tỉnh đã có những bước đột phá; nhiều công trình/dự án được khởi công xây dựng; đối với các công trình/dự án chuyển tiếp tỉnh đã chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trong năm 2019, thiết thực Kỷ niệm 30 năm lập lại tỉnh Quảng Trị…Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ công tác giải ngân vốn đã có những chuyển biến tích cực…vì vậy, tình hình sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2019 đã đạt kết quả khởi sắc.
Giá trị sản xuất xây dựng quý III/2019 (giá so sánh 2010) ước tính đạt 2.306,13 tỷ đồng, tăng 10,49% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: các đơn vị nhà nước thực hiện 5,78 tỷ đồng, tăng 126,78%; các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện 2.300,35 tỷ đồng, tăng 10,35%. Tính chung, giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2019 (giá so sánh 2010) ước tính đạt 5.771,91 tỷ đồng, tăng 11,44% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: các đơn vị nhà nước thực hiện 15,58 tỷ đồng, tăng 138,71%; các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện 5.756,33 tỷ đồng, tăng 11,27%.
Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2019 (giá hiện hành) ước tính đạt 8.555,20 tỷ đồng; trong đó: các đơn vị nhà nước thực hiện 23,10 tỷ đồng, chiếm 0,27%; các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện 8.532,10 tỷ đồng, chiếm 99,73%.
4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng 9/2019 (Tính đến 16/9), toàn tỉnh có 16 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 615 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 38,4 tỷ đồng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 02 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 04 doanh nghiệp.
Quý III/2019 (Tính đến 16/9), toàn tỉnh có 90 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 3.177 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 35,3 tỷ đồng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 29 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 52 doanh nghiệp.
Tính chung từ đầu năm đến 16/9/2019, toàn tỉnh có 285 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 7.619 tỷ đồng, tăng 16,33% về số doanh nghiệp và tăng 385,37% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 26,73 tỷ đồng, tăng 317,25% so với số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 112 doanh nghiệp, tăng 4,67% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 115 doanh nghiệp, tăng 187,50%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…
Chín tháng năm 2019, số doanh nghiệp thành lập mới tăng cả về số lượng và số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp cho thấy môi trường kinh doanh trong tỉnh đã có cải thiện, là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian tiếp theo.
5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
5.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
a1. Cây hàng năm
* Kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm 2018-2019 và Hè Thu năm 2019
Sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân 2018-2019, đầu vụ mưa rét kéo dài nên một số cây hàng năm không gieo trồng kịp thời vụ, trong vụ thời tiết khá thuận lợi; ngành nông nghiệp đã xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt lịch thời vụ; chủ động trong công tác thủy lợi, đảm bảo nguồn nước tưới; chủ động phòng, chống sâu bệnh phát sinh gây hại, không để lây lan…nên vụ Đông Xuân năm nay cũng là năm được mùa. Riêng sản xuất vụ Hè Thu năm 2019, gặp thời tiết bất lợi; nắng nóng xuất hiện sớm và kéo dài, gió Tây Nam thổi mạnh nên lượng bốc hơi lớn, gây hạn hán trên địa bàn tỉnh; cao điểm có hơn 3.500 ha lúa và hoa màu bị hạn, đã ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng của hầu hết các loại cây trồng.
Về diện tích: Tính đến 15/9/2019, toàn tỉnh đã gieo cấy được 26.044 ha lúa vụ Đông Xuân, tăng 0,23% so với vụ Đông Xuân năm trước và 22.563,9 ha lúa vụ Hè Thu, giảm 0,51% so với vụ Hè Thu năm trước; cơ cấu giống lúa chủ yếu là các loại giống ngắn ngày, cho năng suất chất lượng cao như: HN6, TL6, AC5, HC95, HT1, Thiên Ưu 8, P6, NA2…; cây ngô gieo trồng 3.810,6 ha, giảm 8,51%; khoai lang 2.037,4 ha, giảm 10,73%; sắn 11.728,6 ha, giảm 1,31%; lạc 3.344,7 ha, giảm 6,55%; rau các loại 4.941,5 ha, giảm 5,39%; đậu các loại 1.621,8 ha, giảm 4,39%; cây ớt cay 394,9 ha, giảm 13,44%...Diện tích của hầu hết các loại cây trồng đều giảm do vụ Đông Xuân đầu vụ mưa rét kéo dài, không gieo trồng kịp thời vụ; vụ Hè Thu nắng nóng đến sớm và kéo dài nên không gieo trồng được…
Về năng suất: Năng suất lúa vụ Đông Xuân năm 2018-2019 đạt 58,4 tạ/ha, bằng vụ Đông Xuân năm trước; năng suất lúa vụ Hè Thu ước tính đạt 52,2 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha; cây ngô năng suất đạt 36,1 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; cây khoai lang năng suất đạt 81,7 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; cây sắn năng suất đạt 119,1 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha; cây lạc năng suất đạt 21,1 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; rau các loại năng suất đạt 103,3 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; đậu các loại năng suất đạt 9,2 tạ/ha, giảm 0,7 tạ/ha; cây ớt cay năng suất đạt 57,6 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha…
Về sản lượng: Ước tính tổng sản lượng lương thực có hạt vụ Đông Xuân và Hè Thu đạt 283.685,7 tấn, giảm 1,42% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: lúa đạt 269.916,2 tấn, giảm 1,28%; sản lượng ngô đạt 13.769,5 tấn, giảm 4,09%. Sản lượng khoai lang đạt 16.645,6 tấn, giảm 8,95%; sản lượng sắn đạt 139.629 tấn, giảm 0,75%; sản lượng lạc đạt 7.057,3 tấn, giảm 3,81%; sản lượng rau các loại đạt 51.063,9 tấn, giảm 3,70%; sản lượng đậu các loại đạt 1.492,1 tấn, giảm 11,13%; sản lượng ớt cay đạt 2.272,8 tấn, giảm 12,56%…Sản lượng hầu hết các loại cây trồng đều giảm chủ yếu là do diện tích giảm.
Diện tích, sản lượng một số cây hàng năm chủ yếu
|
Ước 9 tháng năm 2019
|
Ước 9 tháng năm 2019 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
1. Diện tích (Ha)
|
|
|
- Lúa (Đông Xuân và Hè Thu)
|
48.607,9
|
99,88
|
- Ngô
|
3.810,6
|
91,49
|
- Khoai lang
|
2.037,4
|
89,27
|
- Sắn (Cả năm)
|
11.728,6
|
98,69
|
- Lạc
|
3.344,7
|
93,45
|
- Rau các loại
|
4.941,5
|
94,61
|
- Đậu các loại
|
1.621,8
|
95,63
|
2. Sản lượng (Tấn)
|
|
|
- Lúa (Đông Xuân và Hè Thu)
|
269.916,2
|
98,72
|
- Ngô
|
13.769,5
|
95,91
|
- Khoai lang
|
16.645,6
|
91,05
|
- Sắn (Cả năm)
|
139.629,0
|
99,25
|
- Lạc
|
7.057,3
|
96,19
|
- Rau các loại
|
51.063,9
|
96,30
|
- Đậu các loại
|
1.492,1
|
88,87
|
* Tiến độ sản xuất vụ Mùa năm 2019
Vụ Mùa ở tỉnh Quảng Trị, chỉ có gieo lúa nương rẩy, thuộc hai huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông; năm nay do hạn hán nên diện tích gieo trồng giảm; mặt khác, lúa nương rẩy hiệu quả kinh tế thấp nên bà con chuyển dần sang trồng sắn, cao su, bời lời...Đến 15/9/2019, diện tích gieo trồng lúa vụ Mùa đạt 1.869,1 ha, giảm 8,57% so với vụ Múa năm trước. Hiện tại, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt.
a2. Cây lâu năm
Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có 33.999,5 ha, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Một số cây lâu năm chủ yếu như: cây cà phê, diện tích hiện có 4.899,5 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng cà phê nhân 9 tháng ước tính đạt 377,7 tấn, giảm 7,34%. Cây cao su, diện tích hiện có 19.306,7 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng cao su mủ khô 9 tháng ước tính đạt 13.150,3 tấn, tăng 14,4%. Cây hồ tiêu, diện tích hiện có 2.510,1 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng hạt tiêu 9 tháng ước tính đạt 1.780 tấn, tăng 20%. Cây chuối, diện tích hiện có 4.386,7 ha, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng chuối 9 tháng ước tính đạt 59.644 tấn, tăng 10,71%. Cây dứa, diện tích hiện có 515,6 ha, tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng dứa 9 tháng ước tính đạt 4.344,4 tấn, tăng 6,42%...
Hiện nay, tình hình sản xuất một số cây lâu năm chủ lực của tỉnh như: cà phê, cao su, hồ tiêu…gặp khó khăn; giá cà phê, hồ tiêu xuống thấp làm cho người sản xuất bị thua lỗ; giá cao su có tăng nhưng vẫn ở mức thấp chưa hấp dẫn người nông dân đầu tư, thâm canh; cây chuối dể trồng, cho thu nhập khá ổn định đối với người dân miền núi nhưng do phát triển tự phát, thiếu quy hoạch nên diện tích và sản lượng tăng khá nhanh, giá bán giảm…
Diện tích, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu
|
Ước 9 tháng
năm 2019
|
9 tháng 2019 so
cùng kỳ năm trước (%)
|
1. Diện tích hiện có (Ha)
|
|
|
- Cà phê
|
4.899,5
|
100,20
|
- Cao su
|
19.306,7
|
100,20
|
- Hồ tiêu
|
2.510,1
|
100,40
|
- Chuối
|
4.386,2
|
100,60
|
- Dứa
|
515,6
|
101,09
|
2. Sản lượng ( Tấn)
|
|
|
- Cà phê
|
377,7
|
92,66
|
- Cao su
|
13.150,3
|
114,40
|
- Hồ tiêu
|
1.780,0
|
120,00
|
- Chuối
|
59.644,0
|
100,71
|
- Dứa
|
4.344,4
|
106,42
|
b. Chăn nuôi
Chăn nuôi đã có sự chuyển biến rỏ nét về tổ chức sản xuất; chăn nuôi trang trại, tập trung theo chuỗi khép kín, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao được mở rộng; nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học đang được phổ biến, nhân rộng. Chương trình Zebu hóa đàn bò tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh, tỷ lệ bò lai Zebu đạt 54,88% khẳng định chất lượng đàn ngày càng được nâng cao, cải tiến. Toàn tỉnh hiện có 78 HTX, trang trại chăn nuôi bò, lợn và gia cầm. Các liên kết trong chăn nuôi đã góp phần đảm bảo bao tiêu đầu ra cho sản phẩm chăn nuôi, tăng năng lực cạnh tranh cho các thành viên tham gia liên kết, đáp ứng được số lượng sản phẩm lớn và chất lượng cho thị trường.
Đến 30/9/2019, ước tính đàn trâu có 22.230 con, giảm 3,77% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 56.000 con, giảm 8,20%; đàn lợn thịt có 164.500 con, giảm 9,62%; đàn gia cầm có 3.460 nghìn con, tăng 28,62%; trong đó: đàn gà 2.620 nghìn con, tăng 20,18%. Hiện nay, chăn nuôi trâu bò chủ yếu để lấy thịt; do đồng cỏ ngày càng thu hẹp nên đàn trâu bò giảm. Đàn lợn giảm do ảnh hưởng dịch tả lợn Châu Phi người chăn nuôi thận trọng, chưa tái đàn. Chăn nuôi gia cầm do giá sản phẩm ổn định, dịch bệnh trong thời gian qua ít xảy ra, mô hình nuôi gia cầm lấy trứng phát triển mạnh; nhiều trang trại, gia trại tăng quy mô nên tổng đàn tăng mạnh; hơn nữa, do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên nhiều hộ chăn nuôi lợn đã chuyển sang nuôi gà, vịt….
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng Chín ước tính đạt 3.109 tấn, giảm 3,51% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 1.964 tấn, giảm 14,68%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý III/2019 ước tính đạt 10.050,8 tấn, tăng 1,95% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 5.823 tấn, giảm 15,33%. Tính chung 9 tháng năm 2019, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 31.659,1 tấn, tăng 4,20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 21.482,2 tấn, giảm 2,85%.
Tổng đàn và sản lượng thịt hơi xuất chuồng
|
Ước 9 tháng
năm 2019
|
9 th 2019 so
9 th 2018 (%)
|
1. Tổng đàn (30/9)
|
|
|
- Đàn trâu (Con)
|
22.230
|
96,23
|
- Đàn bò (Con)
|
56.000
|
91,80
|
- Đàn lợn (Con)
|
164.500
|
90,38
|
- Đàn gia cầm (Nghìn con)
|
3.460
|
128,62
|
TĐ: Đàn gà (Nghìn con)
|
1.620
|
120,18
|
2. SL thịt hơi xuất chuồng (Tấn)
|
31.659,1
|
104,20
|
TĐ: Thịt lợn (Tấn)
|
21.482,2
|
97,15
|
Tình hình dịch bệnh: Dịch tả lợn Châu Phi đã lây lan nhanh trên phạm vi rộng, đàn lợn bị tiêu hủy và bán nhiều; hiện nay người chăn nuôi còn thận trong chưa tái đàn hoặc giảm quy mô nên ảnh hưởng rất lớn đến tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Tính đến ngày 16/9/2019, dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 9/10 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh (Trừ huyện đảo Cồn Cỏ) với tổng số lợn mắc bệnh và đã tiêu hủy là 35.476 con; trọng lượng tiêu hủy 1.830 tấn.
5.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp của tỉnh trong 9 tháng năm 2019 đã có những chuyến biến tích cực với phong trào trồng rừng kinh tế đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng trồng rừng phòng hộ ở những vùng đồi núi và vùng cát ven biển, để phát triển rừng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Để thúc đẩy việc phát triển trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng từ gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn nhằm tạo nguồn nguyên liệu phục vụ ngành công nghiệp chế biến gỗ, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án phát triển rừng trồng kinh doanh gỗ lớn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2019-2025, định hướng đến năm 2030.
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Chín ước tính đạt 1.260 ha, tăng 0,48% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 760 nghìn cây, tăng 1,43%; sản lượng gỗ khai thác đạt 75.667 m3, tăng 15,03%; sản lượng củi khai thác đạt 20.670 ste, tăng 3,23%. Quý III/2019, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 3.756 ha, tăng 13,82% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 1.088,7 nghìn cây, tăng 0,60%; sản lượng gỗ khai thác ước tính đạt 260.845 m3, tăng 8,71%; sản lượng củi khai thác đạt 95.170 ste, tăng 4,72%. Tính chung 9 tháng năm 2019, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 3.756 ha, tăng 13,82% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 1.650 nghìn cây, tăng 0,61%; sản lượng gỗ khai thác đạt 819.913 m3, tăng 9,28%; sản lượng củi khai thác đạt 239.807 ste, tăng 3,30%. Trong 9 tháng năm 2019, nhu cầu gỗ nguyên liệu cho sản xuất và xuất khẩu tăng; tranh thủ thời tiết thuận lợi, các tổ chức và cá nhân tiếp tục khai thác rừng trồng nên sản lượng tăng khá.
Trồng rừng và khai thác lâm sản
|
Ước quý III/2019
|
Ước 9 tháng
năm 2019
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Quý III/2019
|
9 tháng
năm 2019
|
1. DT rừng trồng mới tập trung (Ha)
|
3.756,0
|
3.756,0
|
113,82
|
113,82
|
2. Cây LN trồng phân tán (Nghìn cây)
|
1.088,7
|
1.650,0
|
100,60
|
100,61
|
3. Sản lượng gỗ khai thác (M3)
|
260.845
|
819.913
|
108,71
|
109,28
|
4. Sản lượng củi khai thác (Ster)
|
95.170
|
239.807
|
104,72
|
103,30
|
Thiệt hại rừng: Trong tháng, không có vụ cháy rừng nào xảy ra. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị cháy 86,04 ha, giá trị thiệt hại 1.074,3 triệu đồng. Mặc dù trên địa bàn đã xảy ra 12 vụ cháy rừng, nhưng nhờ thực hiện tốt các biện pháp phòng cháy, tổ chức chữa cháy kịp thời, hiệu quả nên tỉnh Quảng Trị không để xảy ra cháy lớn như một số tỉnh trong khu vực.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong tháng, đã phát hiện và bắt giữ 27 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 27 vụ; lâm sản tịch thu 36,6 m3 gỗ các loại. Tính chung từ đầu năm đến nay, đã phát hiện và bắt giữ 182 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 169 vụ; lâm sản tịch thu 278,2 m3 gỗ các loại; 100,6 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
5.3. Thủy sản
Chín tháng năm 2019, thời tiết thuận lợi cho hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Tỉnh tiếp tục tập trung chỉ đạo ngành thủy sản triển khai mạnh mẽ các chính sách phát triển thủy sản; đặc biệt là các chính sách khuyến khích ngư dân khai thác vùng biển xa…nên sản xuất thủy sản tăng trưởng khá, nhất là khai thác thủy sản.
Sản lượng thủy sản
|
Ước quý III/2019
(Tấn)
|
Ước 9 tháng
năm 2019
(Tấn)
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Quý III/2019
|
9 tháng
năm 2019
|
Tổng số
|
12.533,0
|
28.789,0
|
105,64
|
111,54
|
1. Nuôi trồng
|
3.178,5
|
6.686,5
|
99,02
|
102,96
|
TĐ: - Cá
|
991,0
|
2.692,5
|
97,54
|
101,45
|
- Tôm
|
2.184,0
|
3.966,0
|
99,54
|
103,93
|
2. Khai thác
|
9.354,5
|
22.102,5
|
107,71
|
114,43
|
TĐ: - Cá
|
8.394,5
|
18.303,0
|
110,91
|
113,67
|
- Thủy sản khác
|
946,0
|
3.469,0
|
87,77
|
118,44
|
Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2019 ước tính đạt 3.298,5 ha, tăng 0,88% so với cùng kỳ năm trước; trong đó nuôi cá 2.123,5 ha, giảm 0,14%; nuôi tôm 1.158 ha, tăng 1,67%; nuôi thủy sản khác 17 ha, tăng 314,63%.
Sản lượng thủy sản tháng Chín ước tính đạt 3.444,8 tấn, tăng 1,63% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.679,3 tấn, tăng 0,65%; tôm 413,5 tấn, tăng 9,25%; thủy sản khác 352 tấn, tăng 0,86%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 990,3 tấn, tăng 3,70%; trong đó: cá 587,3 tấn, tăng 0,05%; tôm 403 tấn, tăng 9,51%. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 2.454,5 tấn, tăng 0,82%; trong đó: cá 2.092 tấn, tăng 0,82%; thủy sản khác 352 tấn, tăng 0,86%.
Sản lượng thủy sản quý III/2019 ước tính đạt 12.533 tấn, tăng 5,64% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 9.385,5 tấn, tăng 9,72%; tôm 2.198 tấn, giảm 1,52%; thủy sản khác 949,5 tấn, giảm 11,90%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 3.178,5 tấn, giảm 0,98%; trong đó: cá 991 tấn, giảm 2,46%; tôm 2.184 tấn, giảm 0,46%. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 9.354,5 tấn, tăng 7,71%; trong đó: cá 8.394,5 tấn, tăng 10,91%; thủy sản khác 946 tấn, giảm 12,23%.
Tính chung, sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2019 ước tính đạt 28.789 tấn, tăng 11,54% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 20.995,5 tấn, tăng 11,94%; tôm 4.296,5 tấn, tăng 4,77%; thủy sản khác 3.497 tấn, tăng 18,42%. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 6.686,5 tấn, tăng 2,96% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.692,5 tấn, tăng 1,45%; tôm 3.966 tấn, tăng 3,93%. Nhìn chung, nuôi trồng thủy sản tại Quảng Trị quy mô nhỏ bé và phân tán nên sản lượng có tăng nhưng không đáng kể.
Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 22.102,5 tấn, tăng 14,43%; trong đó: cá 18.303 tấn, tăng 13,67%; tôm 330,5 tấn, tăng 15,96%; thủy sản khác 3.469 tấn, tăng 18,44%. Trong 9 tháng năm 2019, ngư dân Quảng Trị được mùa cá ngừ, cá bè, cá nục, cá trích, cá cơm…cho sản lượng khá so với cùng kỳ năm trước, tạo sự phấn khởi cho ngư dân vươn khơi bám biển.
6. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2019 tăng cao hơn mức tăng 9 tháng năm 2018, nhưng vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và sản xuất, phân phối điện tăng cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước; nhưng ngược lại ngành khai khoáng và cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải có mức tăng thấp hơn. Một số ngành công nghiệp cấp 2 như: dệt; sản xuất trang phục; sản xuất da và sản phẩm có liên quan; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác; sản xuất và phân phối điện…chỉ số sản xuất tăng khá thì vẫn có một số ngành khó khăn về nguyên liệu, thị trường tiệu thụ nên sản xuất có chiều hướng giảm sút như: sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất đồ uống; sản xuất, chế biến thực phẩm…
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2019 ước tính tăng 3,58% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 5,14%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,08%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,67%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 1,27%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2019 ước tính tăng 11,59% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 1,58%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,39%; sản xuất và phân phối điện tăng 15,41%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,56%.
Quý III/2019, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 10,71% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,04%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,66%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,49%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,25%.
Tính chung 9 tháng năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 9,45% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2018 tăng 8,89%); trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,34%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,17%; sản xuất và phân phối điện tăng 20,16%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,53%.
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2019 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 468,46%; dệt tăng 248,28%; sản xuất trang phục tăng 21,15%; sản xuất và phân phối điện tăng 20,16%; khai khoáng khác tăng 17,34%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 14,45%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 11,71%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 7,68%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 5,51%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 4,25%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 3,53%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,99%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 2,45%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 0,14%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 1,68%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 2,98%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 3,68%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 7,16%; khai thác quặng kim loại giảm 10,81%; sản xuất đồ uống giảm 12,88%.
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tháng 9/2019
|
Quý III/2019
|
9 tháng năm 2019
|
Toàn ngành công nghiệp
|
111,59
|
110,71
|
109,45
|
- Khai khoáng
|
98,42
|
100,04
|
100,34
|
- Công nghiệp chế biến, chế tạo
|
112,39
|
110,66
|
108,17
|
- Sản xuất và phân phối điện
|
115,41
|
116,49
|
120,16
|
- Cung cấp nước, HĐ quản lý và xử lý rác thải, nước thải
|
100,56
|
102,25
|
103,53
|
Một số sản phẩm chủ yếu trong 9 tháng năm 2019 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: điện sản xuất tăng 25,44%; phân hóa học tăng 22,11%; thủy hải sản chế biến tăng 21,85%; đá xây dựng tăng 21,14%; quần áo tăng 20,67%; dăm gỗ tăng 16,29%; gạch và gạch khối bằng xi măng, bê tông tăng 15,71%; điện thương phẩm tăng 15,53%...Một số sản phẩm tăng thấp: dầu nhựa thông tăng 14,42%; nước máy tăng 5,47%; tấm lợp proximăng tăng 4,80%...Một số sản phẩm giảm: gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 1,19%; ván ép giảm 1,22%; săm dùng cho xe máy, xe đạp giảm 1,64%; nước hoa quả, tăng lực giảm 5,46%; gỗ cưa hoặc xẻ giảm 7,22%; tinh bột sắn giảm 7,38%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp giảm 7,53%; xi măng giảm 15,92%; bia lon giảm 42,55%...
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2019 giảm 0,04% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,59% so với cùng thời điểm năm trước. So với cùng thời điểm năm trước lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,36%, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,73%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 49,54%. Tại thời điểm trên so với cùng thời điểm năm trước số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 0,78%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,42%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,16%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 1,17%.
7. Thương mại, dịch vụ
7.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2019 trên địa bàn tỉnh khá sôi động; kinh tế của tỉnh duy trì được tốc độ tăng trưởng khá nên sức mua tiêu dùng của người dân tăng; hàng hóa trên thị trường phong phú về chũng loại, đa dạng về mẫu mã đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trên địa bàn tỉnh; hàng sản xuất trong nước chất lượng cao ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng; giá cả ổn định…tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2019 tăng trưởng khá.
Trong 9 tháng, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức thành công Hội chợ Xuân năm 2019, Hội chợ Thương mại và quảng bá Du lịch năm 2019…Các ngành chức năng tăng cường công tác quản lý thị trường; tổ chức các đoàn kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…nhằm bảo vệ người tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
|
Ước
Quý III/2019
( Tỷ đồng)
|
Ước 9 tháng năm 2019
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tổng mức
(Tỷ đồng)
|
Cơ cấu
(%)
|
Quý III/2019
|
9 tháng năm 2019
|
Tổng số
|
7.471,84
|
22.618,55
|
100,00
|
110,77
|
110,67
|
- Bán lẻ hàng hóa
|
6.376,61
|
19.404,58
|
85,79
|
111,25
|
110,71
|
- Lưu trú và ăn uống
|
791,22
|
2.307,28
|
10,20
|
109,34
|
110,23
|
- Du lịch lữ hành
|
9,16
|
26,81
|
0,11
|
111,47
|
111,45
|
- Dịch vụ khác
|
294,85
|
879,88
|
3,90
|
109,49
|
110,79
|
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín ước tính đạt 2.503,86 tỷ đồng, tăng 0,46% so với tháng trước và tăng 11,27% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.139,70 tỷ đồng, tăng 0,37% và tăng 11,67%; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 262,92 tỷ đồng, tăng 1,49% và tăng 9,04%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,91 tỷ đồng, giảm 6,63% và tăng 9,83%; doanh thu dịch vụ khác đạt 98,33 tỷ đồng, giảm 0,08% và tăng 8,67%.
Quý III/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tính đạt 7.471,84 tỷ đồng, tăng 10,77% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 6.376,61 tỷ đồng, tăng 11,25%; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 791,22 tỷ đồng, tăng 9,34%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 9,16 tỷ đồng, tăng 11,47%; doanh thu dịch vụ khác đạt 294,85 tỷ đồng, tăng 9,49%.
Tính chung 9 tháng năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tính đạt 22.618,55 tỷ đồng, tăng 10,67% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 19.404,58 tỷ đồng, chiếm 85,79% tổng mức và tăng 10,71% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá: hàng may mặc tăng 13,90%; gỗ và vật liêu xây dựng tăng 11,27%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 10,78%; lương thực, thực phẩm tăng 10,60%; xăng dầu các loại tăng 9,68%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 2.307,28 tỷ đồng, chiếm 10,20% tổng mức và tăng 10,23% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 65,75 tỷ đồng, tăng 11,49%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.241,53 tỷ đồng, tăng 10,19%.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 26,81 tỷ đồng, chiếm 0,11% tổng mức và tăng 11,45% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 879,88 tỷ đồng, chiếm 3,90% tổng mức và tăng 10,79% so với cùng kỳ năm trước.
7.2. Hoạt động vận tải
Hiện nay, cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện; số lượng và chất lượng phương tiện vận tải được nâng lên; nhiều tuyến vận tải mới được đưa vào hoạt động…Trong 9 tháng năm 2019, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội; ngành vận tải đạt tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân.
Doanh thu vận tải tháng Chín ước tính đạt 130,26 tỷ đồng, tăng 4,06% so với tháng trước và tăng 13,85% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 42,15 tỷ đồng, tăng 2,67% và tăng 11,22%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 79,18 tỷ đồng, tăng 4,59% và tăng 12,54%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 8,93 tỷ đồng, tăng 6% và tăng 44,98%. Tính chung quý III/2019 doanh thu vận tải ước tính đạt 383,18 tỷ đồng, tăng 11,19% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 124,17 tỷ đồng, tăng 7,99%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 233,36 tỷ đồng, tăng 10,51%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 25,65 tỷ đồng, tăng 40,99%. Tính chung 9 tháng năm 2019, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.130,55 tỷ đồng, tăng 10,87% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 380,01 tỷ đồng, tăng 10,12%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 685,32 tỷ đồng, tăng 10,21%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 65,22 tỷ đồng, tăng 23,65%.
Số lượt hành khách vận chuyển tháng Chín ước tính đạt 658,33 nghìn HK, tăng 1,34% so với tháng trước và tăng 5,62% so với cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 57,90 triệu HK.km, tăng 1,49% và tăng 6,80%. Tính chung quý III/2019, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.956,85 nghìn HK, tăng 3,47% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 172,14 triệu HK.km, tăng 4,69%. Tính chung 9 tháng năm 2019, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 5.811,05 nghìn HK, tăng 3,61% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 519,25 triệu HK.km, tăng 5,19%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng Chín ước tính đạt 820,87 nghìn tấn, tăng 2,46% so với tháng trước và tăng 6,17% so với cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 62,67 triệu tấn.km, tăng 2,68% và tăng 7,60%. Tính chung quý III/2019, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 2.419,35 nghìn tấn, tăng 4,17% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 186,54 triệu tấn.km, tăng 6,70%. Tính chung 9 tháng năm 2019, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 7.070,53 nghìn tấn, tăng 3,43% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 546,32 triệu tấn.km, tăng 6,12%.
Vận tải hành khách và hàng hóa
|
Ước quý III/2019
|
Ước 9 tháng năm 2019
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Quý III/2019
|
9 tháng năm 2019
|
1. Vận tải hành khách
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn HK)
|
1.956,85
|
5.881,05
|
103,47
|
103,61
|
- Luân chuyển (Triệu HK.Km)
|
172,14
|
519,25
|
104,69
|
105,19
|
2. Vận tải hàng hóa
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn tấn)
|
2.419,35
|
7.070,53
|
104,17
|
103,43
|
- Luân chuyển (Triệu tấn.Km)
|
186,54
|
546,32
|
106,70
|
106,12
|
7.3. Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Trong 9 tháng năm 2019, tỉnh Quảng Trị diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng: kỷ niệm 30 năm lập lại tỉnh, 10 năm thành lập thành phố Đông Hà, 65 năm truyền thống huyện Vĩnh Linh, 15 năm thành lập huyện đảo Cồn Cỏ, 210 năm lỵ sở Quảng Trị và 30 năm lập lại thị xã Quảng Trị…đã thu hút một lượng khách lớn đến với Quảng Trị; hơn nữa, để từng bước phát triển Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn tỉnh đã phối hợp với các tỉnh trong vùng và các địa phương trên tuyến hành lang kinh tế Đông Tây tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá về du lịch …nên khách lưu trú và du lịch lữ hành đạt tăng trưởng khá.
Số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ tháng Chín ước tính đạt 39.214 lượt, giảm 1,31% so với tháng trước và tăng 9,03% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ đạt 36.221 ngày khách, giảm 1,94% và tăng 9,20%. Số lượt khách du lịch theo tour đạt 1.508 lượt, giảm 1,95% và tăng 9,38%; số ngày khách du lịch theo tour đạt 3.715 ngày khách, giảm 2,83% và tăng 9,90%.
Tính chung 9 tháng năm 2019, số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước tính đạt 335.104 lượt, tăng 7,98% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ đạt 313.969 ngày khách, tăng 8,61%. Số lượt khách du lịch theo tour đạt 13.613 lượt, tăng 9%; số ngày khách du lịch theo tour đạt 33.886 ngày khách, tăng 8,94%.
7.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông
Ước tính đến 30/9/2019, trên địa bàn tỉnh có 178 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 59 bưu cục cấp 2 và 3, 01 bưu cục hệ 1, có 109 bưu điện văn hóa xã, 9 đại lý chuyển phát, 8 thùng thư công cộng độc lập. Có 94/141 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày.
Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) là 2.310 trạm (828 trạm 2G, 967 trạm 3G, 515 trạm 4G).
Ước tính đến 30/9/2019, toàn tỉnh hiện có 625.797 thuê bao điện thoại, tăng 1,37% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 11.583 thuê bao cố định, giảm 30,96% và 614.214 thuê bao di động, tăng 1,92%. Số thuê bao Internet hiện có là 79.425 thuê bao, tăng 10,94% so với cùng thời điểm năm trước.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
Lực lượng lao động ước tính đến 30/9/2019 là 350.780 người, chiếm 55% dân số; trong đó: nam 177.850 người, chiếm 50,71%; nử 172.930 người, chiếm 49,29%. Lực lượng lao động khu vực thành thị 98.630 người, chiếm 28,11%; khu vực nông thôn 252.150 người, chiếm 71,89%.
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính đến 30/9/2019 là 342.320 người, chiếm 97,58% lực lượng lao động; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 41,75% (Năm 2018 là 44,11%), khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19,55% (Năm 2018 là 18,38%), khu vực dịch vụ chiếm 38,70% (Năm 2018 là 37,51%). Như vậy, lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã chuyển dịch sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp chung toàn tỉnh giảm từ 2,93% cuối quý II/2019 xuống 2,41% vào cuối quý III/2019. Tỷ lệ thất nghiệp giảm là do công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm đã đạt được những kết quả tích cực.
Tính đến 15/9/2019, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 7.704 người; trong đó: Cao đẳng 184 người, Trung cấp 486 người, Sơ cấp và đào tạo thường xuyên 7.034 người.
Ước tính 9 tháng năm 2019, toàn tỉnh có 10.500 lao động được tạo việc làm mới; trong đó: 5.000 lao động làm việc trong tỉnh, 3.437 lao động làm việc ngoài tỉnh và 2.063 lao động làm việc ở nước ngoài.
2. Tình hình đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
2.1. Đời sống dân cư
Chín tháng năm 2019, tình hình kinh tế của tỉnh đạt được những kết quả khả quan. Ngay từ đầu năm, tỉnh đã có kế hoạch thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo...bảo đảm không để hộ nghèo nào thiếu đói. Vì vậy, trong 9 tháng năm 2019 tình hình thiếu đói trong khu vực nông thôn không xảy ra.
Theo Nghị định số 157/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động áp dụng từ ngày 01/01/2019 tăng từ 160.000 - 200.000 đồng/tháng. Theo Nghị định số 38/2019/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; từ ngày 01/7/2019, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng tăng thêm 100.000 đồng/tháng so với mức lương cũ. Nhìn chung đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hưởng lương được cải thiện so với cùng kỳ năm trước.
2.2. Bảo đảm an sinh xã hội
Trong thời gian qua, tỉnh đã hỗ trợ vay vốn ưu đãi cho 18.235 lượt hộ nghèo và hộ chính sách khác để phát triển sản xuất, kinh doanh với tổng số tiền cho vay 675 tỷ đồng. Thực hiện miễn giảm học phí cho 20.742 lượt học sinh thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và hỗ trợ kinh phí học tập cho 24.525 lượt học sinh thuộc hộ nghèo; tổng kinh phí miễn giảm và chi phí học tập là 17.658 triệu đồng. Ngoài ra, Ban quản lý Quỹ khám, chữa bệnh của tỉnh đã phân bổ 06 tỷ đồng cho các cơ sở y tế của Nhà nước nhằm hỗ trợ một phần tiền ăn, tiền đi lại và tiền viện phí cho các đối tượng (người nghèo, bảo trợ xã hội và người mắc bệnh hiểm nghèo không đủ khả năng chi trả viện phí).
Thực hiện cấp 282.622 thẻ Bảo hiểm y tế /sổ, thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho tất cả các đối tượng được phát miễn phí.
Kế hoạch tổng nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo của tỉnh năm 2019 là 148.901 triệu đồng (trong đó: vốn đầu tư phát triển 114.442 triệu đồng; vốn sự nghiệp 34.459 triệu đồng). Các Sở, ban ngành và địa phương đang tích cực triển khai thực hiện các dự án, chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo năm 2019.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 35.165 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Trong đó có 202 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 21 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 696 người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, hộ nghèo; 14.207 người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên; 1.407 đối tượng đơn thân nuôi nhỏ, hộ nghèo; 15.021 người khuyết tật; 3.564 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT ĐB nặng; 47 hộ gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em không nơi nương tựa.
Công tác chăm lo đời sống cho nhân dân trong dịp Tết được các ngành, các địa phương tiến hành đảm bảo kịp thời đến tay người dân trước khi đón Tết. Trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã trao tặng tổng số 88.298 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác với tổng kinh phí là 37.937 triệu đồng.
Nhân dịp Kỷ niệm 72 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ, tỉnh đã tổ chức tặng quà Chủ tịch nước cho các đối tượng người có công với cách mạng; theo đó, có 14.266 lượt người có công và thân nhân được nhận quà Chủ tịch nước với tổng kinh phí trên 5.623 triệu đồng. Quà tặng của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân là 5.669 suất với kinh phí 3.582 triệu đồng. Khởi công xây mới 66 nhà tình nghĩa với tổng số tiền 3.930 triệu đồng, sửa chữa 10 nhà tình nghĩa với số tiền 157 triệu đồng; từ nguồn quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, trao tặng 26 sổ tiết kiệm trị giá 150 triệu đồng cho các gia đình chính sách, người có công tiêu biểu trong toàn tỉnh.
Đến ngày 18/9/2019, đã vận động CB,CC,VC và người lao động đóng góp được 683 triệu đồng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”.
Phân bổ 480 tấn gạo của Chính phủ hỗ trợ cho các hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn ở 2 huyện miền núi vùng dân tộc thiểu số trong kỳ giáp hạt năm 2019.
3. Giáo dục, đào tạo
Năm học 2018-2019, Thực hiện Kế hoạch số 84-KH/TU, Kế hoạch số 86-KH/TU của Tỉnh ủy và Quyết định số 1322/QĐ-UBND của UBND tỉnh, ngành Giáo dục và Đào tạo tích cực phối hợp với Sở Nội vụ và UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức rà soát sắp xếp lại quy mô, mạng lưới trường lớp học.
Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hoá quốc gia lớp 12 THPT tại tỉnh Quảng Trị. Tỉnh Quảng Trị có 54 thí sinh dự thi ở 09 môn thi. Kết quả có 25 học sinh đạt giải (01 giải Nhất, 04 giải Nhì, 08 giải Ba và 12 giải Khuyến khích), tăng 09 giải so với năm 2018. Tham gia Kỳ thi Olympic Hình học Iran năm 2018, có 02 học sinh đạt giải (01 huy chương Bạc và 01 huy chương Đồng). Gần đây, em Thái Xuân Đăng, học sinh Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn đạt huy chương Bạc môn Tin học Olympic Châu Á – Thái Bình Dương.
Kết quả thi THPT Quốc gia năm 2019 tại Quảng Trị, toàn tỉnh có 7.459 thí sinh dự thi, tốt nghiệp 6.710 thí sinh, đạt tỷ lệ 89,96% (giảm 4,89% so với năm trước).
Năm học 2018-2019, toàn ngành có 552 học sinh bỏ học, giảm gần 100 HS so với năm học 2017-2018.
Số liệu đầu năm học 2019-2020, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 227 trường học, giảm 17 trường so với năm học trước (Tiểu học 69 trường, giảm 17 trường; THCS 45 trường, giảm 15 trường; PTCS 81 trường, tăng 14 trường; THPT 24 trường, giảm 01 trường; TH 6 trường, tăng 01 trường; Phổ thông 01 trường và Liên cấp 01 trường). Số lớp học có 4.530 lớp, tăng 117 lớp so với năm học trước (Tiểu học 2.580 lớp, tăng 76 lớp; THCS 1.290 lớp, tăng 28 lớp; THPT 660 lớp, tăng 13 lớp). Số học sinh phổ thông có 129.985 HS, tăng 2,67% so với năm học trước (Tiểu học 60.846 HS, tăng 2,53%; THCS 44.285 HS, tăng 2,58%; THPT 24.854 HS, tăng 3,18%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 7.785 GV, tăng 1,09% so với năm học trước (Tiểu học 3.625 GV, tăng 1,88%; THCS 2.640 GV, tăng 0,34%; THPT 1.520 GV, tăng 0,53%). Giáo dục mầm non có 169 trường mầm non, tăng 01 trường so với năm học trước. Nhà trẻ có 388 nhóm trẻ, tăng 15 nhóm; có 6.850 cháu, tăng 4,18%; 672 cô nuôi dạy trẻ, tăng 7,87%. Mẫu giáo có 1.307 lớp, tăng 10 lớp; 35.865 HS, tăng 1,74%; 2.572 GV, tăng 8,02%.
4. Y tế
4.1. Tình hình khám, chữa bệnh
Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 162 cơ sở y tế, giảm 01 cơ sở do sáp nhập (20 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 cơ sở y tế khác); có 2.025 giường bệnh (không kể trạm xá), bằng cùng kỳ năm trước.
Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về chất lượng chuyên môn; có 2.804 cán bộ ngành y, tăng 10,61% so với cùng kỳ năm trước (Trong đó có 618 bác sĩ trở lên, tăng 7,29%); có 215 cán bộ ngành dược, tăng 17,49% (Trong đó có 55 dược sỹ cao cấp trở lên, bằng cùng kỳ năm trước).
Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Chín tháng năm 2019 ước tính có 1.039.421 lượt người khám bệnh, tăng 5,85% so với cùng kỳ năm trước; 110.947 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, tăng 6,68%; số ngày điều trị nội trú 733.103 ngày, tăng 8,25%. Trong dịp Lễ Tết, nhất là Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019; Tỉnh đã chỉ đạo các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh trực 24/24 giờ, bảo đảm đủ nhân lực, thuốc, trang thiết bị, phương tiện để xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu tai nạn giao thông, ngộ độc, sinh đẻ. Đối với các bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện trong dịp Tết, tổ chức chăm sóc, phục vụ chu đáo người bệnh còn nằm lại điều trị cả về vật chất và tinh thần; đặc biệt, tổ chức thăm hỏi, chúc Tết những người bệnh thuộc diện chính sách và người nghèo.
4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tháng Chín, trên địa bàn tỉnh có 721 trường hợp mắc bệnh cúm, 12 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 40 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 07 trường hợp mắc bệnh quai bị, 16 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 154 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 06 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut...Tính chung 9 tháng năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 6.407 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 21,33% so với cùng kỳ năm trước; 144 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 42,86%; 365 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 24,43%; 119 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 43,87%; 174 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, giảm 65,06%; 1.296 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 2,48%; 98 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, tăng 12,64%...Nhìn chung, hầu hết các loại dịch bệnh đều giảm so với cùng kỳ năm trước; không có trường hợp tử vong do dịch bệnh.
Trong tháng, đã phát hiện thêm 01 trường hợp nhiễm HIV/AIDS. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 231 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ). Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 96 người.
Trong tháng Chín và 9 tháng năm 2019, trên địa bàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm lớn nào xảy ra; chỉ xảy ra một số vụ ngộ độc thức ăn nhẹ đã được kịp thời cứu chữa.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao
Thực hiện tốt công tác khánh tiết, tuyên truyền, cổ động trực quan; tổ chức tốt các ngày lễ kỷ niệm, lễ hội của quê hương đất nước đảm bảo trang trọng, an toàn, tiết kiệm, thiết thực, hiệu quả; để lại ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân, bè bạn trong và ngoài nước. Tiêu biểu là Kỷ niệm 89 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Kỷ Hợi – 2019; Kỷ niệm 30 năm Ngày lập lại tỉnh Quảng Trị…
Các hoạt động được tổ chức trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019: Hội chợ Hoa Xuân; Chương trình nghệ thuật đặc biệt, bắn pháo hoa đón giao thừa mừng Xuân Kỷ Hợi - 2019; Hội Báo Xuân Kỷ Hợi; Hội Bài chòi…Đáng chú ý là Chương trình Nghệ thuật đặc biệt, bắn pháo hoa đón Giao thừa, mừng Xuân Kỷ Hợi với chủ đề “Thắp sáng niềm tin”. Tổ chức thành công các hoạt động lễ hội truyền thống dân gian tiêu biểu của tỉnh Quảng Trị: Lễ hội Chợ đình Bích La (Triệu Phong); Ném cù, Hội thi Đan troi - Chẻ đá (Gio Linh); Hội Bài chòi (Vĩnh Linh); Hội vật cổ truyền, kéo co, Lễ hội cầu ngư và hội vật (Hải Lăng)...
Tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Lễ hội “Thống nhất non sông – năm 2019”: Chương trình nghệ thuật "Khát vọng hòa bình"; Lễ Thượng cờ, Hội Bài chòi, Giải đua thuyền truyền thống…
Tổ chức các hoạt động Kỷ niệm 30 năm ngày lập lại tỉnh (01/7/1989 - 01/7/2019): Xuất bản tập sách ảnh “Quảng Trị - 30 năm đổi mới và phát triển”; Tổ chức Liên hoan tiếng hát “ Đường 9 xanh”; Liên hoan nghệ thuật quần chúng tỉnh Quảng Trị - năm 2019; Tổ chức giải Đua thuyền vô địch toàn quốc năm 2019; Giải vô địch cử tạ trẻ toàn quốc năm 2019. Xây dựng kịch bản Chương trình Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày lập lại tỉnh Quảng Trị…
Chín tháng năm 2019, Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh tổ chức 38 buổi diễn phục vụ, thu hút 20.000 lượt người; Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh đã tổ chức 187 buổi chiếu phim với hơn 48.000 lượt người xem.
Đoàn nghệ thuật quần chúng Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh tham gia hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” các tỉnh Bắc miền Trung được tổ chức tại Quảng Bình đạt giải Nhì tại hội diễn.
Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền về đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với “Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” theo hướng có chiều sâu, chất lượng. Đến nay, toàn tỉnh có 152.904/168.043 gia đình được công nhận gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 90,9%; 1.043/1.082 làng, bản, khu phố được công nhận văn hóa, đạt tỷ lệ 96,4%; 981/1044 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 93,9%; 13/13 phường đã đăng ký phát động "Phường đạt chuẩn văn minh đô thị", 11 thị trấn/10 huyện đăng ký phát động "Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”; 6/24 thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; Có 57/117 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, 58/117 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 104/141 xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa- trung tâm thể thao, đạt tỷ lệ 73,7%; 998/1082 làng, bản, khu phố có nhà văn hóa, khu thể thao, đạt tỷ lệ 92,5 %.
Thể dục, thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Đến nay, tỷ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 31,7%; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 26,3%; có 785 câu lạc bộ và điểm tập TDTT. Công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học được chú trọng, chất lượng phong trào được nâng lên rõ rệt: 100% các trường THCS, THPT tổ chức giảng dạy nội khoá, 100% số trường tổ chức giảng dạy ngoại khoá có nề nếp…
Công tác xã hội hóa thể dục, thể thao tiếp tục được đẩy mạnh, thiết chế TDTT tại cơ sở được quan tâm đầu tư. Toàn tỉnh hiện có 02 nhà thi đấu thể thao cấp tỉnh, 4 nhà thi đấu cấp huyện, thị, thành phố có quy mô từ 1.000 – 2.000 chỗ ngồi, 04 sân vận động có khán đài, 200 sân điền kinh, 282 sân bóng đá, 423 sân bóng chuyền, 35 sân quần vợt, 12 bể bơi, 07 nhà tập cầu lông, 08 nhà tập bóng bàn và 335 sân tập các môn thể thao khác; 14 nhà tập luyện và thi đấu TDTT ở các Sở, ban, ngành, 09 nhà tập luyện TDTT ở các trường THPT…
Đoàn thể thao người khuyết tật tỉnh tham gia tập huấn và thi đấu giải Điền kinh và môn Bơi người khuyết tật toàn quốc tại TP.Cần Thơ năm 2019, kết quả đạt được 38 huy chương (17HCV, 16HCB, 5HCĐ); Đoàn thể thao dân tộc thiểu số tỉnh tham gia Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc tại tỉnh Bắc Cạn năm 2019, kết quả xếp thứ 3 toàn đoàn ở nội dung môn Bóng đá năm. Tổ chức thành công các giải thể thao như: Giải Bóng đá nam U11 Cúp QRTV Quảng Trị lần thứ V, năm 2019; Giải Việt dã tỉnh Quảng Trị năm 2019 “Cùng Sacombank chạy vì sức khỏe cộng đồng”; Giải Điền kinh người khuyết tật tỉnh Quảng Trị năm 2019; Giải Bóng đá Báo Quảng Trị năm 2019 – Cúp Trường Sơn; Giải Bóng chuyền nữ tỉnh Quảng Trị năm 2019…
Thể dục, thể thao thành tích cao được quan tâm. Các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ duy trì tập luyện và thi đấu thường xuyên theo kế hoạch. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh là 135 VĐV, gồm: 25 VĐV đội tuyển tỉnh, 22 VĐV đội tuyển trẻ và 88 VĐV năng hiếu.
Chín tháng năm 2019, các đội tuyển đã tham gia thi đấu 21 giải thể thao toàn quốc, đạt 58 huy chương các loại, gồm: 15 HCV, 20 HCB và 23 HCĐ.
6. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Ban ATGT tỉnh, trong 9 tháng năm 2019, tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh giảm cả 3 tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương.
Tháng 9/2019 (Từ 16/8 đến 15/9/2019), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, làm chết 07 người, bị thương 12 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông giảm 33,33% (-06 người), số người chết giảm 36,36 (-04 người), số người bị thương giảm 7,69% (-01 người).
Quý III/2019 (Từ 16/6 đến 15/9/2019), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 40 vụ tai nạn giao thông, làm chết 28 người, bị thương 30 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông giảm 21,57% (-11 vụ), số người chết giảm 6,67% (-02 người), số người bị thương giảm 25% (-10 người).
Tính chung, 9 tháng năm 2019 (Từ 16/12/2018 đến 15/9/2019) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 112 vụ tai nạn giao thông, làm chết 83 người, bị thương 77 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 24,32% (-36 vụ), số người chết giảm 15,31% (-15 người), số người bị thương giảm 27,36 (-29 người).
Trong số vụ tai nạn giao thông xảy ra trong 9 tháng năm 2019; đường bộ xảy ra 109 vụ, làm chết 81 người, bị thương 75 người; đường sắt xảy ra 03 vụ, làm chết 02 người, bị thương 02 người.
7. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường và thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, đã xảy ra 04 vụ cháy; giá trị tài sản thiệt hại ước tính 42 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 176 vụ cháy, tăng 214,28% (+120 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm 01 người chết, 02 người bị thương; tổng giá trị tài sản thiệt hại 13.369 triệu đồng, tăng 221% so với cùng kỳ năm trước. Chín tháng năm nay tình hình cháy xảy ra nhiều do hạn hán kéo dài.
Trong tháng, các ngành chức năng đã phát hiện và xử lý 15 vụ vi phạm môi trường; số tiền xử phạt 126 triệu đồng. Tính chung, từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 164 vụ vi phạm môi trường, tiến hành xử lý 151 vụ với tổng số tiền xử phạt 626 triệu đồng.
Trong 9 tháng năm 2019, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra hiện tượng thời tiết cực đoan như: lốc xoáy, mưa lớn, sét đánh, áp thấp nhiệt đới…đã làm thiệt hại về người và tài sản của người dân một số địa phương trong tỉnh. Thiên tai đã làm 01 người chết, 02 người bị thương; giá trị tài sản thiệt hại ước tính hơn 286 tỷ đồng. Ngay sau khi thiên tai xảy ra, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương đã về địa bàn xảy ra thiên tai kiểm tra, thăm hỏi, động viên các hộ gia đình có người thân chết, bị thương và thiệt hại tài sản; nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống nhân dân.
Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2019 tỉnh Quảng Trị./.
► Số liệu KT-XH 9 tháng năm 2019
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ