Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 526
Hôm nay: 1,909
Lượt truy cập: 1,418,447
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ III VÀ 9 THÁNG NĂM 2021
Cập nhật bản tin: 9/29/2021
            

 

Năm 2021, là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của năm 2021 có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở và động lực cho việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của những năm tiếp theo.

Tỉnh Quảng Trị bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 trong bối cảnh kinh tế thế giới dần phục hồi, các quốc gia đẩy mạnh tiêm vắc- xin phòng dịch COVID-19 và đã đạt được kết quả ban đầu, các nước phát triển dần mở cửa trở lại. Các nền kinh tế lớn trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU dự báo đạt mức tăng trưởng khá nhờ nổ lực tiêm vắc-xin và ban hành những gói cứu trợ nền kinh tế. Thương mại toàn cầu tiếp tục phục hồi, giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng, lạm phát, rủi ro tài chính gia tăng ở một số nền kinh tế lớn, ảnh hưởng đến đầu tư, sản xuất và xuất, nhập khẩu. Ở trong nước, tiếp đà những kết quả quan trọng, ấn tượng đạt được của năm 2020, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, thời tiết tương đối thuận lợi, sản xuất kinh doanh những tháng đầu năm đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, làn sóng thứ tư dịch COVID-19 bùng phát trở lại từ cuối tháng Tư tại các tỉnh, thành trên cả nước, đặc biệt tại các tỉnh, thành kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai…và diễn biến phức tạp đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, điều hành để phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Tại Quảng Trị, thời tiết những tháng đầu năm nay khá thuận lợi; các ngành kinh tế đang trên đà phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: hậu quả của thiên tai, lũ lụt năm 2020 còn nặng nề; dịch COVID-19 trong nước và trên thế giới diễn biến phức tạp làm cho chuổi cung ứng sản xuất và tiêu thụ bị thu hẹp; tại Quảng Trị, dịch COVID-19 cũng đã xảy ra, TP Đông Hà phải thực hiện giản cách xã hội theo nguyên tắc Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ nên đã ảnh hưởng rất lớn đến một số hoạt động không thiết yếu và tăng trưởng một số ngành kinh tế; nhiều dự án đầu tư trọng điểm của tỉnh chậm được triển khai; công tác giải ngân vốn đầu tư công chậm; một bộ phận dân cư gặp khó khăn do ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh…Trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, ban ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong trong Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; Kết luận số 05-KL/TU ngày 03/12/2020 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 83/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 với mục tiêu hàng đầu là chăm lo, bảo vệ sức khỏe người dân, nỗ lực phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2021 như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

1.1. Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp 9 tháng năm 2021, vụ Đông Xuân diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, chủ động nguồn nước, sâu bệnh gây hại ít phát sinh nên năng suất hầu hết các loại cây trồng đều cao hơn năm trước; đặc biệt, năng suất lúa cao nhất từ trước đến nay ở mức 61tạ/ha. Vụ Hè Thu thời tiết nắng nóng kéo dài, nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm, gió Tây Nam thổi mạnh gây nên tình trạng khô hạn đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng, nhất là cây lúa trong thời kỳ làm đòng và trổ bông; hơn nữa, do ảnh hưởng của bảo số 5 một số diện tích lúa gieo cấy muộn bị gãy đổ, ngập úng làm giảm năng suất lúa Hè Thu. Cây lâu năm chủ đạo của tỉnh là cao su, cà phê, hồ tiêu, chuối do giá bán sản phẩm thiếu ổn định nên phát triển chậm. Chăn nuôi lợn phục hồi nhanh, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt; đàn lợn thịt cuối tháng Chín tăng 31,13%, tổng đàn gia cầm tăng 12,45% so với cùng thười điểm năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng tăng 27,92% so với cùng kỳ năm trước. 

a. Trồng trọt

a1.  Cây hàng năm

* Tiến độ sản xuất nông nghiệp đến ngày 15/9/2021

Sản xuất cây hàng năm 9 tháng năm 2021, vụ Đông Xuân đầu vụ gặp khó khăn, hơn 1.000 ha đất sản xuất nông nghiệp bị bồi lấp, nhiều công trình giao thông, thủy lợi nội đồng bị hư hỏng do lũ lụt cuối năm 2020 cần phải khắc phục để sản xuất. Vụ Hè Thu, nắng nóng kéo dài gây hạn hán, thiếu nước ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng; trong thời kỳ lúa trổ bông, nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm và gió Tây Nam thổi mạnh làm cho bông lúa bị lép hạt; hơn nữa, một số diện tích lúa trà muộn ảnh hưởng của bảo số 5 bị gãy đổ, ngập úng đã ảnh hưởng đến năng suất. Mặc dù có một số khó khăn nhưng nhìn chung sản xuất cây hàng năm 9 tháng năm 2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, chủ động được nguồn nước, các đối tượng gây hại cây trồng thấp hơn so với mọi năm…Vụ Đông Xuân được mùa toàn diện, vụ Hè Thu do ảnh hưởng thời tiết năng suất lúa tuy không bằng vụ Hè Thu năm trước nhưng cũng đạt khá.

Tính đến ngày 15/9/2021, toàn tỉnh đã gieo cấy 50.338,4 ha lúa, giảm 0,63% cùng kỳ năm trước; trong đó: lúa Đông Xuân 25.944,6 ha, giảm 0,59%; lúa Hè Thu 22.580,3 ha, giảm 0,13%; lúa Mùa 1.813,5 ha, giảm 7,07%. Cây ngô gieo trồng 4.385,6 ha, tăng 14,64% so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 1.512,3 ha, giảm 13,90%; sắn 12.438 ha, tăng 3,56%; lạc 3.289,4 ha, tăng 2,36%; rau các loại 5.350,6 ha, tăng 6,61%; đậu các loại 1.624,1 ha, tăng 2,45%; cây ớt cay 448,1 ha, tăng 6,77%...Diện tích gieo cấy lúa giảm chủ yếu là do lúa Mùa giảm mạnh. Lúa Mùa chủ yếu là lúa nương rẩy thuộc hai huyện miền núi Hướng Hóa và ĐaKrông, hiện nay do đất nương rẩy bị bạc màu trồng lúa kém hiệu quả nên các địa phương chuyển sang trồng sắn, chuối, cao su...; cây khoai lang giảm do kém hiệu quả nên được chuyển sang trồng các loại cây khác.

Năng suất lúa vụ Đông xuân đạt 61 tạ/ha cao nhất từ trước đến nay, tăng 2,3 tạ/ha so với vụ Đông Xuân năm trước; năng suất lúa vụ Hè Thu ước tính đạt 52,8 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha so với vụ Hè Thu năm trước. Năng suất ngô ước tính đạt 34,5 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha; năng suất khoai lang 81 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha; năng suất sắn 159,9 tạ/ha, giảm 7,9 tạ/ha; năng suất lạc 23,5 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; năng suất rau các loại 106,6 tạ/ha, tăng 2,6 tạ/ha; năng suất đậu các loại 11,1 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha; năng suất cây ớt cay 55,5 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha…Năng suất lúa Đông Xuân năm nay đạt cao nhất từ trước đến nay ngoài yếu tố thời tiết thuận lợi, chủ động nguồn nước, sâu bệnh ít gây hại còn là kết quả của việc chuyển đổi cơ cấu giống lúa theo hướng nâng cao chất lượng hiệu quả, đưa vào sản xuất bộ giống lúa ngắn ngày và cực ngắn, có năng suất, chất lượng cao.

Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ Đông Xuân và Hè Thu ước tính đạt 292.609 tấn, tăng 1,77% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, lúa 277.491,7 tấn, tăng 1,08% (lúa Đông Xuân 158.262,1 tấn, tăng 3,24%; lúa Hè Thu 119.229,6 tấn, giảm 1,65%); ngô 15.117,3 tấn, tăng 16,39%. Sản lượng khoai lang ước tính đạt 12.244,4 tấn, giảm 14,55%; sắn 198.899,8 tấn, giảm 1,28%; lạc 7.739,9 tấn, tăng 13,37%; rau các loại 57.028,7 tấn, tăng 9,22%; đậu các loại 1.796,5 tấn, tăng 10,98%; ớt cay 2.486,4 tấn, tăng 6,85%…

a2. Cây lâu năm

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 32.439,5 ha, giảm 0,22% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: cây cao su 19.045,9 ha, tăng 1,14%; cây cà phê 4.325,5 ha, giảm 1,07%; cây hồ tiêu 2.315,4 ha, giảm 7,57%; cây chuối 4.138,2 ha, tăng 0,40%; cây dứa 329,6 ha, bằng năm trước...Sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2021: cao su 17.544 tấn, tăng 7,80% so với cùng kỳ năm trước; cây cà phê chưa thu hoạch; hồ tiêu 1.487,7 tấn, giảm 45,60%; chuối 51.840 tấn, giảm 7,39%; dứa 2.655 tấn, giảm 9,85%...Cây hồ tiêu năm nay mất mùa do ảnh hưởng của bão, lũ cuối năm 2020; cây chuối đất đai ngày càng bạc màu, điều kiện sinh trưởng kém nên sản lượng giảm…Riêng cây cao su do giá bán có tăng, người dân tăng cường khai thác nên sản lượng tăng.

b. Chăn nuôi

Chăn nuôi trâu, bò trong 9 tháng năm 2021 bị ảnh hưởng bởi dịch viêm da nổi cục; chăn nuôi lợn dịch tả lợn châu Phi còn phát sinh những ổ dịch nhỏ lẻ. Ước tính đến 30/9/2021, đàn trâu có 21.895 con, giảm 1,60% so với cùng thời điểm năm 2020; đàn bò có 55.800 con, giảm 1,24%; đàn lợn thịt có 132.726 con, tăng 31,13%; đàn gia cầm có 3.679,1 nghìn con, tăng 12,45%, trong đó: đàn gà 2.946,7 nghìn con, tăng 15,04%. Chăn nuôi trâu, bò phát triển theo hướng nuôi nhốt vỗ béo, lấy thịt. Chăn nuôi lợn phục hồi nhanh, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt.  

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 9/2021 ước tính đạt 5.024,5 tấn, tăng 62,23% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu hơi 78,3 tấn, giảm 0,51%; thịt bò hơi 245,3 tấn, tăng 0,95%; thịt lợn hơi 3.405,6 tấn, tăng 106,66%; thịt gia cầm hơi 1.295,3 tấn, tăng 14,87%. Sản lượng trứng gia cầm 2.416,6 nghìn quả, tăng 9,13%. Tính cả quý III/2021, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 12.105,4 tấn, tăng 22,71% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu hơi 235 tấn, giảm 0,42%; thịt bò hơi 736 tấn, tăng 0,96%; thịt lợn hơi 7.149,6 tấn, tăng 21,94%; thịt gia cầm hơi 3.886,1 tấn, tăng 14,88%. Sản lượng trứng gia cầm 11.892,4 nghìn quả, tăng 1,50%. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 35.641,9 tấn, tăng 27,92% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu hơi 697 tấn, bằng cùng kỳ; thịt bò hơi 2.246 tấn, tăng 2,04%; thịt lợn hơi 20.478,3 tấn, tăng 37,49%; thịt gia cầm hơi 11.931,9 tấn, tăng 21,96%. Sản lượng trứng gia cầm 36.579,5 nghìn quả, tăng 5,48%.

 Tình hình dịch bệnh: Tính đến ngày 15/9/2021, dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 358 hộ, 115 thôn, 53 xã, phường, thị trấn của 09 huyện, thị xã, thành phố với tổng số 2.717 con (438 lợn nái, 1.715 lợn thịt và 564 lợn sữa) bị bệnh, chết buộc chôn hủy, trọng lượng tiêu hủy 117.434 kg. Quy trình chôn hủy được thực hiện đúng quy định có sự giám sát của cơ quan thú y. Đến 15/9/2021, trên địa bàn tỉnh còn 01 xã (xã Triệu Vân, Triệu Phong) còn gia súc mắc bệnh chưa qua 21 ngày.

Từ đầu năm đến nay, bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò tiếp tục xảy ra tại 1.623 hộ, 350 thôn, 85 xã, phường, thị trấn của 10 huyện, thị xã, thành phố với tổng số mắc bệnh 2.793 con (trâu 08 con, bò 2.785 con); tiêu hủy 266 con (trâu 01 con, bò 265 con); trọng lượng tiêu hủy 35.408 kg. Đến 15/9/2021 trên địa bàn tỉnh còn 07 xã, phường của 04 huyện, thị xã còn gia súc mắc bệnh chưa qua 21 ngày.

1.2. Lâm  nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp 9 tháng năm 2021 chủ yếu là khai thác gỗ rừng trồng phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất khẩu; chăm sóc rừng, bảo vệ và  phòng, chống cháy rừng; các tổ chức và cá nhân tranh thủ thời tiết thuận lợi trồng rừng tập trung theo kế hoạch. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 tình hình xuất khẩu gỗ gặp khó khăn hơn nên sản lượng gỗ khai thác giảm so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng mới tập trung tăng 4,72% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác giảm 0,89%.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 9/2021 ước tính đạt 1.707 ha, tăng 22,72% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 46.520 m3, tăng 1,95%; sản lượng củi khai thác 11.096 ster, giảm 1,46%...Tính cả quý III/2021, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 4.196 ha, tăng 10,48% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 219.384 m3, giảm 10,42%; sản lượng củi khai thác 51.250 ster, giảm 0,28%...Tính chung 9 tháng năm 2021, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 5.659 ha, tăng 4,72% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 771.584 m3, giảm 0,89%; sản lượng củi khai thác 153.750 ster, tăng 3,96%...Hiện nay, trồng rừng chủ yếu từ giống dâm hom và nuôi cấy mô nên thời tiết thuận lợi có mưa, đủ nước thì đều có thể tiến hành trồng rừng.

Thiệt hại rừng: Trong 9 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 08 vụ cháy rừng, giảm 27,27% (-03 vụ) so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị cháy 27,46 ha, giảm 35,07% (-14,83 ha) và 08 vụ phá rừng, diện tích rừng bị chặt phá 0,58 ha.

1.3. Thủy sản

Sản xuất thủy sản 9 tháng năm 2021 thời tiết khá thuận lợi cho đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, ngư dân tích cực bám biển nhưng sản lượng thủy sản giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tôm nuôi giảm mạnh do diện tích thả nuôi giảm và dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính phát sinh nên sản lượng giảm làm cho sản lượng thuỷ sản nuôi trồng giảm. Riêng khai thác hải sản năm nay ngư dân được mùa ruốc, sứa, mực…nhưng cá ngừ, cá thu ít xuất hiện nên sản lượng chỉ ổn định. Hiện nay, ngành thủy sản đang gặp khó khăn do dịch COVID-19 diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ và giá cả sản phẩm.

Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 3.328,6 ha, giảm 2,11% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, nuôi cá 2.182 ha, tăng 1,40%; nuôi tôm 1.117,8 ha, giảm 8,30%; nuôi thủy sản khác 28,8 ha, giảm 1,71%.

Tổng sản lượng thủy sản tháng 9/2021 ước tính đạt 3.459,5 tấn, giảm 7,92% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm, cá 2.376,6 tấn, giảm 1,02%; tôm 893 tấn, giảm 8,01%; thủy sản khác 189,9 tấn, giảm 1,20%. Tính cả quý III/2021, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 12.505,3 tấn, tăng 15,43% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm, cá 9.298,5 tấn, tăng 24,71%; tôm 1.908,1 tấn, giảm 17,64%; thủy sản khác 1.298,7 tấn, tăng 22,48%. Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 30.246 tấn, giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm, cá 20.770,8 tấn, giảm 2,19%; tôm 4.078,2 tấn, giảm 8,01%; thủy sản khác 5.397 tấn, tăng 12,37%. Trong tổng sản lượng thủy sản:

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 9/2021 ước tính đạt 1.134,5 tấn, giảm 18,45% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 246,6 tấn, tăng 1,48%; tôm 878 tấn, giảm 22,98%. Tính cả quý III/2021, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 2.880 tấn, giảm 11,90% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 1.053 tấn, tăng 4,05%; tôm 1.817 tấn, giảm 19,28%. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 6.547,7 tấn, giảm 3,84% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 2.683,7 tấn, tăng 2,49%; tôm 3.837 tấn, giảm 8,01%. Sản lượng  thủy sản nuôi trồng 9 tháng năm nay sản lượng giảm chủ yếu do tôm nuôi giảm.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 9/2021 ước tính đạt 2.325 tấn, giảm 1,73% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 2.130 tấn, giảm 1,30%; thủy sản khác 180 tấn, giảm 2,17%. Tính cả quý III/2021, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 9.625,3 tấn, tăng 27,24% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 8.245,5 tấn, tăng 27,95%; thủy sản khác 1.288,7 tấn, tăng 22,22%. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 23.698,3 tấn, tăng 0,15% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 18.087,1 tấn, giảm 2,84%; thủy sản khác 5.370 tấn, tăng 12,27%.

Dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Từ đầu năm đến nay, dịch bệnh trên tôm nuôi đã xảy ra tại địa bàn 04 xã, phường của huyện Vĩnh Linh và TP Đông Hà với tổng diện tích bị bệnh là 20,29 ha; trong đó, 0,7 ha bị bệnh đốm trắng, 19,59  ha bị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã kịp thời cấp Chlorine  hỗ trợ dập dịch nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.

2. Sản xuất công nghiệp 

Chín tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến tháng Tám dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, sản xuất công nghiệp dần phục hồi và phát triển khá; tuy nhiên, từ cuối tháng Tám đến nay dịch COVID-19 bùng phát trở lại phải thực hiện giãn cách xã hội TP Đông Hà theo nguyên tắc Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ đã ảnh hưởng đến sản xuất công nghiệp tháng 9 và quý III/2021 nhưng không nhiều. Dịch COVID-19 trong nước và trên thế giới diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến chuổi cung ứng sản xuất và tiêu thụ. Năm nay, trên địa bàn tỉnh một số dự án điện gió, điện mặt trời hoàn thành đi vào hoạt động nên sản xuất công nghiệp đã có những tín hiệu tích cực. Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021 ước tính tăng 9,40% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,79% của cùng kỳ năm 2020; trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành giữ vai trò dẫn dắt ngành công nghiệp nhưng chỉ tăng 7,65%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2021 ước tính tăng 3,32% so với tháng trước và tăng 8,58% so với cùng kỳ năm trước. So với cùng kỳ năm trước ngành khai khoáng tăng 0,02%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,02%; sản xuất và phân phối điện tăng 33,29%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,02%. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Chín tăng chậm so với tháng trước do từ giữa tháng Chín TP Đông Hà thực hiện giãn cách xã hội theo nguyên tắc Chỉ thị 16 của Thủ tưởng Chính phủ nên việc đi lại một số lao động các doanh nghiệp công nghiệp ở các địa phương khác gặp khó khăn.

Tính cả quý III/2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 10,17% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,13%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,82%; sản xuất và phân phối điện tăng 25,57%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,15%. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý Ba tăng khá so với cùng kỳ năm trước do một số dự án điện gió, điện mặt trời hoàn thành đi vào hoạt động.

Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 9,40% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 6,51%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,65%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,70%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,92%.

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: dệt tăng 97,29%; sản xuất đồ uống tăng 22,24%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,70%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 18,37%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 16,94%; khai khoáng khác tăng 15,78%. Ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai thác quặng kim loại giảm 0,14%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 0,92%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 6,45%; sản xuất, chế biến thực phẩm giảm 6,65%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 9,40%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 28,79%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 45,49%. Các ngành có chỉ số sản xuất tăng cao do đảm bảo được nguyên vật liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ ổn định. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm do chuổi cung ứng sản xuất và tiêu thụ bị thu hẹp do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Một số sản phẩm chủ yếu trong 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: ván ép ước tính đạt 195,96 nghìn m3, tăng 56,80%; gạch khối bằng xi măng, bê tông 51,33 triệu viên, tăng 53,34%; bia lon 9.082 nghìn lít, tăng 32,70%;   điện sản xuất 776 triệu kwh, tăng 24,92%; đá xây dựng 771,55 nghìn m3, tăng 17,39%; gạch xây dựng bằng đất sét nung 122,80 triệu viên, tăng 13,77%; gỗ cưa hoặc xẻ 50,48 nghìn m3, tăng 12,18%; nước hoa quả, tăng lực 9.132 nghìn lít, tăng 10,44%...Một số sản phẩm tăng thấp: xi măng 224,93 nghìn tấn, tăng 8,91%;      săm dùng cho xe máy, xe đạp 3.998 nghìn cái, tăng 6,67%; bộ com lê, quần áo 16.344 nghìn cái, tăng 5,76%; tấm lợp proximăng 3.962 nghìn m2, tăng 5,02%;    lốp dùng cho xe máy, xe đạp 2.436 nghìn cái, tăng 4,24%; phân hóa học 45,86 nghìn tấn, tăng 3,02%; nước máy 10.752 nghìn m3, tăng 1,12%; điện thương phẩm 553 triệu kwh, tăng 0,15%...Một số sản phẩm giảm: tinh bột sắn 45,60 nghìn tấn, giảm 1,84%; dăm gỗ 256,70 nghìn tấn, giảm 6,55%; thủy hải sản chế biến 6.997 tấn, giảm 8,85%...

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Chín tháng năm 2021, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số vốn đăng ký đều giảm, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể tăng so với cùng kỳ năm trước do dịch COVID-19 kéo dài, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Tính chung 9 tháng năm 2021, số doanh nghiệp thành lập mới giảm 25,25% so với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 18,25%, số doanh nghiệp giải thể tăng 3,03%.

Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tháng 9/2021 (Từ 01/9-15/9), toàn tỉnh có 14 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 172 tỷ đồng, số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 12,29 tỷ đồng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 03 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 01 doanh nghiệp; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 06 doanh nghiệp.

Tính chung 9 tháng năm 2021 (Từ 01/01-15/9/2021), toàn tỉnh có 296 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 25,25% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 4.543 tỷ đồng, giảm 36,23%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 15,35 tỷ đồng, giảm 14,67%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 162 doanh nghiệp, tăng 18,25% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 34 doanh nghiệp, tăng 3,03%; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 120 doanh nghiệp, tăng 44,58%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả trong điều kiện ảnh hưởng của dịch COVID-19…

4. Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2021 tăng 55,41% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn rất nhiều so với mức tăng 12,83% của 9 tháng năm 2020. Vốn đầu tư thực hiện 9 tháng năm nay tăng cao là do trên địa bàn tỉnh có  dự án giao thông lớn cao tốc Cam Lộ - La Sơn được đẩy nhanh tiến độ; hàng chục dự án điện gió, điện mặt trời… thuộc nguồn vốn ngoài nhà nước được đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm hoàn thành đưa vào vận hành trước 01/11/2021 để được hưởng giá điện ưu đãi. Riêng vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn nhà nước tiếp tục gặp khó khăn do vướng mắc trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng; thủ tục hành chính, giải ngân vốn chậm…

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý III/2021 (giá hiện hành) ước tính đạt 9.538,93 tỷ đồng, tăng 60,79% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn  nhà nước 1.592,48 tỷ đồng, chiếm 16,18% tổng vốn và tăng 0,06% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngoài nhà nước 7.927,45 tỷ đồng, chiếm 83,11% tổng vốn và tăng 83,22%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 19 tỷ đồng, chiếm 0,71% tổng vốn và tăng 32,83%.

Trong vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý III/2021, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.023,60 tỷ đồng, giảm 1,11% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách tỉnh 820,18 tỷ đồng, giảm 1,82%; vốn ngân sách huyện 179,55 tỷ đồng, giảm 0,52%; vốn ngân sách xã 23,87 tỷ đồng, tăng 24,15%.

Tính chung, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2021 (giá hiện hành) ước tính đạt 21.342,18 tỷ đồng, tăng 55,41% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn nhà nước 3.668,40 tỷ đồng, chiếm 17,19% tổng vốn và giảm 2,74% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngoài nhà nước 17.556,60 tỷ đồng, chiếm 82,26% tổng vốn và tăng 77,54%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 117,18 tỷ đồng, chiếm 0,55% tổng vốn và tăng 63,21%.

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 9 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 2.259,52 tỷ đồng, bằng 55,43% kế hoạch năm 2021 và giảm 1,36% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách tỉnh 1.834,21 tỷ đồng, bằng 54,28% kế hoạch và tăng 1,68%; vốn ngân sách huyện 377,42 tỷ đồng, bằng 60,49% kế hoạch và giảm 11,93%; vốn ngân sách xã 47,89 tỷ đồng, bằng 65,44% kế hoạch và giảm 17,79%.

Trong vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2021, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước tính đạt 18.551,46 tỷ đồng, tăng 84,70% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 1.551,76 tỷ đồng, giảm 15,52%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ 1.194,74 tỷ đồng, giảm 27,39%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 28,82 tỷ đồng, giảm 79,26%; vốn đầu tư phát triển khác 15.39 tỷ đồng, giảm 77,15%.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong tháng Chín và quý III/2021 trên địa bàn tỉnh không có dự án đầu tư nước ngoài nào được cấp phép. Tính chung 9 tháng năm 2021, có 01 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới với tổng mức đầu tư là 88,26 triệu USD. Trong 9 tháng năm 2021, vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước tính đạt 5,07 triệu USD, tăng 63,02% so với cùng kỳ năm trước.

Về tiến độ giải ngân vốn: Theo số liệu Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Trị, tính đến 15/9/2021: Nguồn vốn NSNN địa phương do tỉnh quản lý đã giải ngân hơn 1.231 tỷ đồng (bao gồm cả vốn kéo dài năm trước chuyển sang) đạt 31,44% so với kế hoạch vốn chung. Trong đó, tính riêng giải ngân vốn kế hoạch giao trong năm 2021 là 1.020 tỷ đồng, đạt 28,02% và đạt 35,28% kế hoạch UBND tỉnh đã phân bổ.

5. Thương mại và dịch vụ

5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Chín tháng năm 2021, từ đầu năm đến cuối tháng Tám dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát; mặc dù có phát sinh một số ca bệnh nhưng Tỉnh thực hiện giãn cách có trọng tâm, trọng điểm đã hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, dịch COVID-19 tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước diễn biến phức tạp; tại thành phố Đông Hà từ cuối tháng Tám đến nay dịch COVID-19 bùng phát phải thực hiện giãn cách xã hội theo nguyên tắc Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ tạm dừng hoặc hạn chế một số hoạt động kinh doanh không thiết yếu; hơn nữa, tình hình dịch COVID-19 kéo dài một bộ phận người dân gặp khó khăn, sức mua giảm sút nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 8,09% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 1,87% của cùng kỳ năm 2020, nhưng thấp hơn mức tăng cùng kỳ các năm trước đó.  

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2021 ước tính đạt 2.615,90 tỷ đồng, giảm 4,94% so với tháng trước và giảm 1,92% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa 2.387,58 tỷ đồng, giảm 4,47% và giảm 0,52%; doanh thu lưu trú và ăn uống 156,52 tỷ đồng, giảm 9,88% và giảm 18,55%; du lịch lữ hành không phát sinh doanh thu; doanh thu dịch vụ khác 71,80 tỷ đồng, giảm 8,94% và giảm 4,06%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm trước là do trong tháng Chín thành phố Đông Hà thực hiện giãn cách xã hội theo nguyên tắc Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ, tạm dừng hoặc hạn chế một số hoạt động kinh doanh không thiết yếu.

Tính cả quý III/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 8.306,38 tỷ đồng, tăng 3,89% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa 7.446,95 tỷ đồng, tăng 4,75%; doanh thu lưu trú và ăn uống 606,31 tỷ đồng, giảm 5,19%; doanh thu du lịch lữ hành không phát sinh; doanh thu dịch vụ khác 253,12 tỷ đồng, tăng 3,48%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý Ba tăng chậm là do tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín giảm.

Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 24.778,06 tỷ đồng, tăng 8,09% so với cùng kỳ năm trước.  Nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2021 tăng 5,35% so với cùng kỳ năm trước.

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 21.881,56 tỷ đồng, chiếm 88,31% tổng mức và tăng 8,04% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng khá là: vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 23,42%; ô tô con tăng 22,64%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) tăng 17,42%; gỗ và vật  liêu xây dựng tăng 12,48%; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 11,50%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 11,16%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 2.051,21 tỷ đồng, chiếm 8,28% tổng mức và tăng 8,03% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 32,79 tỷ đồng, giảm 15,76%; doanh thu dịch vụ ăn uống 2.018,42 tỷ đồng, tăng 8,53%.

Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 1,52 tỷ đồng, chiếm 0,01% tổng mức và giảm 72,76% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 843,77 tỷ đồng, chiếm 3,41% tổng mức và tăng 10,30% so với cùng kỳ năm trước.

5.2. Vận tải hành khách và hàng hóa

Từ đầu năm đến cuối tháng Tám dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát nên hoạt động vận tải phục hồi trở lại, nhất là vận tải hành khách; nhưng từ cuối tháng Tám đến nay dịch COVID-19 bùng phát trở lại phải thực hiện giãn cách xã hội TP Đông Hà theo nguyên tắc Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ nên hoạt động vận tải lại tiếp tục khó khăn. Chín tháng năm 2021 vận chuyển hành khách tăng 6,38%, luân chuyển hành khách tăng 6,47% so với cùng kỳ năm trước do cùng kỳ năm trước giảm sâu (9 tháng năm 2020 là -15,01% và -19,98%); vận chuyển hàng hóa tăng 1,80%, luân chuyển hàng hóa tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2020 là +9,68% và +4,42%).

Doanh thu vận tải tháng 9/2021 ước tính đạt 116,39 tỷ đồng, giảm 22,21% so với tháng trước và giảm 25,94% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 10,71 tỷ đồng, giảm 45,49% và giảm 59,35%; doanh thu vận tải hàng hóa 89,60 tỷ đồng, giảm 20,61% và giảm 20,67%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 16,08 tỷ đồng, giảm 5,97% và giảm 9,96%. Tính cả quý III/2021 doanh thu vận tải ước tính đạt 430,59 tỷ đồng, giảm 4,01% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 57,47 tỷ đồng, giảm 9,53%; doanh thu vận tải hàng hóa 322,31 tỷ đồng, giảm 3,08%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 50,81 tỷ đồng, giảm 3,08%. Tính chung 9 tháng năm 2021, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.411,99 tỷ đồng, tăng 3,20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 235,91 tỷ đồng, tăng 6,89%; doanh thu vận tải hàng hóa 1.011,90 tỷ đồng, tăng 2,41%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 164,18 tỷ đồng, tăng 3,01%.

Số lượt hành khách vận chuyển tháng 9/2021 ước tính đạt 322,5 nghìn HK, giảm 33,29% so với tháng trước và giảm 52,74% so với cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 30.113,2 nghìn HK.km, giảm 35,75% và giảm 49,74%. Tính cả quý III/2021 số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.410,4 nghìn HK, giảm 14,65% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 125.519,6 nghìn HK.km, giảm 8,29%. Tính chung 9 tháng năm 2021, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 5.559 nghìn HK, tăng 6,38% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 460.300,5 nghìn HK.km, tăng 6,47%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 9/2021 ước tính đạt 882,8 nghìn tấn, giảm 23,10% so với tháng trước và giảm 14,48% so với cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 57.873,4 nghìn tấn.km, giảm 21,60% và giảm 26,20%. Tính cả quý III/2021 khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 3.306,6 nghìn tấn, tăng 8,74% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 209.493,9 nghìn tấn.km, tăng 2,89%. Tính chung 9 tháng năm 2021, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 8.864,2 nghìn tấn, tăng 1,80% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 614.375,2 nghìn tấn.km, tăng 3,15%.

5.3. Khách lưu trú và du lịch lữ hành

Hoạt động kinh doanh lưu trú và du lịch lữ hành 9 tháng năm 2021 tiếp tục gặp khó khăn do dịch COVID-19 ở trong nước và các nước trong khu vực diễn biến phức tạp nên chưa mở cửa đón khách du lịch. Số lượt khách lưu trú 9 tháng năm 2021 giảm 23,63%, số ngày khách lưu trú giảm 16,68% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2020 -42,90% và -50,33%); số lượt khách du lịch theo tour giảm 60,03%, số ngày khách du lịch theo tour giảm 63,84% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2020 -84,71% và -86,07%).

Số lượt khách lưu trú tháng 9/2021 ước tính đạt 20.269 lượt khách, giảm 12,31% so với tháng trước và giảm 54,21% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 16.166 ngày khách (chỉ tính khách ngũ qua đêm), giảm 14,27% và giảm 46,36%. Tính chung 9 tháng năm 2021, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 200.059 lượt khách, giảm 23,63% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 149.370 ngày khách, giảm 16,68%.

Khách du lịch theo tour tháng 9/2021 không phát sinh do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Tính chung 9 tháng đầu năm 2021, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 1.642 lượt khách, giảm 60,03% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 2.340 ngày khách, giảm 63,84%.

5.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông

Chín tháng năm 2021, các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông thực hiện tốt việc quản lý, cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát; đảm bảo an toàn thông tin; đa dạng hóa các gói dịch vụ, nâng cấp băng thông cho thiết bị di động…phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng trong điều kiện dịch COVID-19. Nhìn chung hoạt động bưu chính, viễn thông trên địa bàn phát triển ổn định.

Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 215 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 88 bưu cục cấp 2 và 3 và điểm phục vụ, 01 bưu cục hệ 1, có 109/125 xã, phường có điểm bưu điện văn hóa xã, 06 đại lý chuyển phát, 03 văn phòng đại diện, 08 thùng thư công cộng độc lập. Có 101/125 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố (trừ huyện đảo Cồn Cỏ) có báo đến trong ngày. Bán kính phục vụ bình quân 2,383 km/1điểm phục vụ; số dân được phục vụ 3.020 người/1 điểm phục vụ.

Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.870 trạm (819 trạm 2G, 1.101 trạm 3G, 950 trạm 4G).

Ước tính đến 30/9/2021, toàn tỉnh có 667.843 thuê bao điện thoại, tăng 7,07% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó, 8.504 thuê bao cố định, giảm 12,56% và 659.339 thuê bao di động, tăng 7,38%. Số thuê bao Internet hiện có là 104.521 thuê bao, tăng 13,77% so với cùng thời điểm năm trước.

6. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng năm 2021 tăng 2,60% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,71% của cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng là: giá lương thực tăng do khó khăn trong khâu lưu thông, chi phí vận chuyển tăng; giá đồ uống, thuốc lá tăng do nguồn cung giảm; giá vật liệu xây dựng, dịch vụ bảo dưỡng nhà ở tăng, giá ga tăng; giá dịch vụ giáo dục tăng do tăng học phí; giá xăng dầu điều chỉnh tăng do giá dầu thế giới tăng…nhưng vẫn có những yếu tố làm cho giá tiêu dùng tăng chậm lại như: giá dịch vụ văn hóa, giải trí và du lịch giảm do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhu cầu giảm; giá bưu chính viễn thông giảm do nguồn cung thiết bị điện thoại dồi dào…Giá vàng bình quân 9 tháng năm 2021 tăng 15,46%, giá Đô la Mỹ giảm 1,30% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2021 tăng 0,16% so với tháng trước; tăng 2,32% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,99% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III/2021 tăng 3,34% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2021 tăng 2,60% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 9/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: giao thông tăng 9,69%; giáo dục tăng 6,68%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,93%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,20%;  may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,79%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,98%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,96%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,60% (lương thực tăng 9,85%, thực phẩm giảm 2,19%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,19); thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%. Có 2/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: bưu chính viễn thông giảm 0,48%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,29%.

Chỉ số giá vàng tháng 9/2021 tăng 0,02% so với tháng trước, tăng 3,69% so với tháng 12 năm trước và tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý III/2021 tăng 5,48% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 9 tháng năm 2021 tăng 15,46% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2021 giảm 0,58% so với tháng trước, giảm 1,52% so với tháng 12 năm trước và giảm 1,68% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý III/2021 giảm 1,18% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng năm 2021 giảm 1,30% so với cùng kỳ năm trước.

7. Tài chính, ngân hàng

7.1. Tài chính

Chín tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến tháng Tám dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục phục hồi và phát triển; chủ trương tiết kiệm chi tiêu của Chính phủ đã tác động tích cực đến thu, chi ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/9/2021 đạt 115,12% dự toán và tăng 78% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách địa phương đạt 65,18% dự toán và tăng 2%.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/9/2021 đạt 3.971,62 tỷ đồng, bằng 115,12% dự toán địa phương năm 2021 và tăng 78% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa 2.699,70 tỷ đồng, bằng 90,90% dự toán và tăng 38%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 1.264,27 tỷ đồng, bằng 263,39% dự toán và tăng 429,50%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: thu tiền sử dụng đất 936,45 tỷ đồng, tăng 39,66% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 618,55 tỷ đồng, tăng 51,11%; thuế bảo vệ môi trường 327,40 tỷ đồng, tăng 23,56%; lệ phí trước bạ 168,46 tỷ đồng, tăng 64%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 160,09 tỷ đồng, tăng 12,80%...Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt cao so với dự toàn là do năm nay có thêm nguồn thu thuế nhập khẩu linh kiện, thiết bị của các dự án điện gió đang đầu tư trên địa bàn tỉnh.

Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/9/2021 đạt 5.972,02 tỷ đồng, bằng 65,18% dự toán địa phương năm 2021 và tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, chi đầu tư phát triển 573,17 tỷ đồng, bằng 40,92% dự toán và giảm 5%; chi thường xuyên 3.515,23 tỷ đồng, bằng 72,11% dự toán và tăng 2%. Trong chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.504,44 tỷ đồng, tăng 18,35% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 823,63 tỷ đồng, tăng 7,16%; chi sự nghiệp kinh tế 405,82 tỷ đồng, tăng 17,18%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 354,08 tỷ đồng, giảm 1,72%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 224,73 tỷ đồng, giảm 7,62%...Chi ngân sách địa phương đạt thấp so với dự toán là do thực hiện chủ trương của Chính phủ siết chặt chi tiêu, đặc biệt là chi thường xuyên.

7.2. Ngân hàng

Chín tháng năm 2021, ngành Ngân hàng tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do dịch COVID-19, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí; giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19. Tuy mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm, doanh nghiệp gặp khó khăn trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài nhưng huy động vốn trên địa bàn và dư nợ cho vay tăng trưởng ổn định.

Lãi suất cho vay trên địa bàn trong 9 tháng năm 2021 có xu hướng giảm so với quý IV/2020, thị trường tiền tệ ổn định. Hiện lãi suất cho vay VND ngắn hạn phổ biến từ 4,5-8%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn phổ biến 7-10/năm, lãi suất cho vay VND ngắn hạn đối với lĩnh vực ưu tiên phổ biến 4,5%/năm.

Huy động vốn trên địa bàn đến 31/8/2021 đạt 28.502 tỷ đồng, tăng 8,14% (+2.145 tỷ đồng) so với cuối năm 2020; bao gồm, tiền gửi tiết kiệm 22.974 tỷ đồng, tăng 8,14% (+1.729 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 3.489 tỷ đồng, tăng 6,73% (+220 tỷ đồng); huy động khác 1.344 tỷ đồng, tăng 10,53% (+128 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 695 tỷ đồng, tăng 10,85% (+68 tỷ đồng). Ước tính đến 30/9/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 28.650 tỷ đồng, tăng 8,70% so với cuối năm 2020.

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 31/8/2021 đạt 40.533 tỷ đồng, tăng 10,51% (+3.855 tỷ đồng) so với cuối năm 2020; bao gồm, dư nợ cho vay ngắn hạn 19.291 tỷ đồng, chiếm 47,59% tổng dư nợ và tăng 14,67% (+2.468 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 21.242 tỷ đồng, chiếm 52,41% và tăng 6,99% (+1.387 tỷ đồng). Ước tính đến 30/9/2021, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đạt 40.700 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cuối năm 2020.

Nợ xấu đến 31/8/2021 là 858 tỷ đồng, chiếm 2,12% tổng dư nợ. Ước tính đến 30/9/2021, nợ xấu chiếm 2% tổng dư nợ.

II. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm

Chín tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến cuối tháng Tám dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, từ cuối tháng Tám đến nay dịch mới bùng phát trở lại. Tuy nhiên, tại TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam dịch COVID-19 diễn biến phức tạp nên một lực lượng lao động trở về địa phương để tránh dịch hoặc tìm kiếm việc làm…làm cho lực lượng lao động quý III và 9 tháng tăng lên; một số lao động tìm được việc làm nhưng một số lại rơi vào tình trạng thất nghiệp do cơ hội việc làm ít đưa tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh quý III/2021 tăng lên. Từ đầu năm đến tháng Tám dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, sản xuất kinh doanh phục hồi và phát triển nên tỷ lệ thất nghiệp 9 tháng năm 2021 giảm.

Lực lượng lao động tỉnh Quảng Trị trong quý III/2021 ước tính là 352.338 người, tăng 0,17% so với quý trước và tăng 1,39% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, lực lượng lao động toàn tỉnh ước tính 351.530 người, tăng 0,93% so với cùng kỳ năm trước. Trong lực lượng lao động, nam 180.010 người, chiếm 51,21%, nữ 171.520 người, chiếm 48,79%; khu vực thành thị 109.642 người, chiếm 31,19%; khu vực nông thôn 241.888 người, chiếm 68,81%.

Lao động có việc làm của tỉnh quý III/2021 ước tính là 342.758 người, tăng 0,1% so với quý trước và tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng  năm 2021, ước tính là 341.777 người, chiếm 97,22% lực lượng lao động toàn tỉnh, tăng 1,35% so với cùng kỳ năm trước. Trong số lao động có việc làm, lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 152.603 người, chiếm 44,65% và tăng 2,57% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng 67.843 người, chiếm 19,85% và tăng 4,51%; khu vực dịch vụ 121.331 người, chiếm 35,50% và giảm 1,77% (Cơ cấu 9 tháng năm 2020 tương ứng là: 44,12%; 19,25% và 36,63%).

Tỷ lệ thất nghiệp chung trong quý III/2021 ước khoảng 2,72%, tăng 0,07 điểm phần trăm so quý trước và giảm 0,86 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp chung ước khoảng 2,77%, giảm 0,41 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến ngày 09/9/2021, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 5.447 người; trong đó, Cao đẳng 20 người, Trung cấp 349 người, Sơ cấp và đào tạo thường xuyên 5.078 người.

Tính đến ngày 10/9/2021, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 7.995 lao động; trong đó, việc làm trong tỉnh 4.213 lao động, việc làm ngoài tỉnh 3.042 lao động, việc làm ngoài nước 740 lao động (xuất khẩu lao động: 654 lao động).

Trong 9 tháng, tổ chức tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng Bảo hiểm thất nghiệp cho 2.800 lao động thất nghiệp và giải quyết hồ sơ 2.755 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền hơn 38,9 tỷ đồng.

2. Tình hình đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

2.1. Đời sống dân cư

Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều đến cuối năm 2020 trên địa bàn tỉnh có 12.505 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 7,03% và 11.210 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 6,30%. Tính đến ngày 10/9/2021, toàn tỉnh có 43.458 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.

Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ đầu năm đến cuối tháng Tám dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, cuối tháng Tám dịch mới bùng phát trở lại. Tỉnh đang thực hiện tốt “mục tiêu kép” vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân. Kinh tế của tỉnh phục hồi và phát triển theo chiều hướng tích cực, sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân được mùa toàn diện, vụ Hè Thu cây lúa năng suất tuy có sụt giảm so với vụ Hè Thu năm trước do ảnh hưởng của thời tiết nhưng vẫn đạt khá, chăn nuôi phục hồi nhanh, sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt kết quả khả quan. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn. Tính đến nay có 57/101 xã (56,4%) và 01 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Bên cạnh đó, công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp hổ trợ hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo, các gia đình gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19, thiên tai và đột xuất…nên tình hình thiếu đói của dân cư nói chung và khu vực nông thôn tháng Chín và 9 tháng năm 2021 không xảy ra.

2.2. An sinh xã hội

Đầu năm 2021, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa phương tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo, các đối tượng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19 và thiệt hại do thiên tai, lũ lụt năm 2020…

Trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã trao tặng tổng số 95.928 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác với tổng kinh phí là 52.451,4 triệu đồng; trong đó, hổ trợ hộ nghèo ăn Tết 12.505 suất quà với tổng kinh phí 6.368 triệu đồng.

Ngoài ra, 9 tháng năm 2021 tỉnh đã phân bổ 1.625,72 tấn gạo của Chính phủ hổ trợ để cứu trợ cho 22.631 lượt hộ gia đình (tương ứng 108.448 khẩu) có hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo không có hộ gia đình nào bị thiếu đói trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu và thời kỳ giáp hạt năm 2021.

Thực hiện hỗ trợ về nhà ở bị thiệt hại do thiên tai theo Nghị quyết số 165/2020/NQ-CP, toàn tỉnh có 196 hộ gia đình bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra trong tháng 10/2020 với kinh phí được hỗ trợ là 4,21 tỷ đồng (trong đó: 75 hộ gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trôi hoàn toàn với mức hỗ trợ 40 triệu đồng/nhà; 121 hộ gia đình có nhà ở bị hư hỏng nặng với mức hỗ trợ 10 triệu đồng/nhà).

Trong 9 tháng năm 2021, Ban vận động Quỹ “Vì người nghèo” các cấp trong tỉnh đã hỗ trợ xây dựng mới 84 nhà Đại đoàn kết với kinh phí 3.335 triệu đồng; hỗ trợ sửa chữa 51 nhà ở với kinh phí 727 triệu đồng; hỗ trợ phát triển sản xuất cho 76 hộ gia đình với kinh phí 534,3 triệu đồng; hỗ trợ 672 em học sinh nghèo với kinh phí 351,6 triệu đồng; hỗ trợ khám chữa bệnh cho 309 người với kinh phí 190,2 triệu đồng; hỗ trợ khó khăn với 4.737 suất quà, trị giá 2.600 triệu đồng; xây dựng 01 trường Mầm non với kinh phí 5.000 triệu đồng

Nhân kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh Liệt sỹ, đã có 24.861 người có công được tặng quà Chủ tịch nước với số tiền 7.571,7 triệu đồng; lãnh đạo tỉnh đã tổ chức thăm hỏi một số gia đình với 23 suất quà, trị giá mỗi suất quà là 1,3 triệu  đồng. Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã vận động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh xây mới 18 nhà tình nghĩa với kinh phí 1.400 triệu đồng; sửa chữa 16 nhà ở người có công với kinh phí 2.800 triệu đồng; tặng 62 sổ tiết kiệm cho người có công và thân nhân người có công với kinh phí 554 triệu đồng. Toàn tỉnh có 37 bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được các tổ chức, cá nhân nhận phụng dưỡng, chăm sóc.

3. Giáo dục - đào tạo

Năm học 2020-2021, ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để phát triển phẩm chất năng lực học sinh như: tổ chức các chuyên đề cấp tỉnh đổi mới phương pháp dạy học các môn học cấp THPT, trong đó nhiều chuyên đề về giáo dục STEM. Tổ chức thành công Cuộc thi khoa học kỹ thuật khối học sinh trung học cấp tỉnh, Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh cấp tiểu học và cấp THPT; tổ chức Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2020-2021…

Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được quan tâm. Tính đến 15/8/2021, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia toàn tỉnh là 193/368 (chỉ tính khối các trường công lập), đạt tỉ lệ 52,4%, trong đó: Mầm non có 92/147 trường, đạt tỉ lệ 62,6%; Tiểu học có 38/67 trường, đạt tỉ lệ 56,7%; TH&THCS có 34/80 trường, đạt tỉ lệ 42,5%; THCS có 19/43 trường, đạt tỉ lệ 44,2%; THPT có 10/24 trường, đạt tỉ lệ 41,7%; THCS&THPT có 0/7 trường.

Công tác phổ cập giáo dục - xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả tích cực. Tính đến 15/6/2021, tỉnh Quảng Trị duy trì vững chắc kết quả đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đạt mức độ 3; tỷ lệ xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh đạt chuẩn phổ cập THCS: có 8 xã đạt Mức độ 1; 30 xã đạt Mức độ 2; 87 xã đạt Mức độ 3; 02 huyện đạt Mức độ 1; 04 huyện đạt Mức độ 2; 04 huyện đạt Mức độ 3. Tỉnh Quảng Trị đạt Mức độ 1 về phổ cập giáo dục THCS.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hoá quốc gia lớp 12 THPT tại tỉnh Quảng Trị, có 52 thí sinh dự thi, 28 học sinh đạt giải, chiếm tỷ lệ 52,8% (gồm 04 giải nhì, 12 giải ba và 12 giải khuyến khích).

Tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021, kết quả kỳ thi THPT quốc gia năm 2021 (đợt 1) tỉnh Quảng Trị có điểm trung bình các môn là 6,106 điểm, thấp so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT của năm học 2020-2021 là 94,36% (nếu tính cả số thí sinh tự do tỷ lệ tốt nghiệp là 94,09%).

Tỉnh đã ban hành Quyết định số 2105/QĐ-UBND ngày 11/8/2021 về khung kế hoạch thời gian năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên. Theo đó, học sinh các cấp tựu trường ngày 01/9/2021; riêng đối với lớp 1, tựu trường ngày 25/8/2021; khai giảng năm học mới vào ngày 05/9 - Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường; ngày 06/9/2021 là ngày bắt đầu học đối với các cấp học. Chủ đề năm học 2021-2022 là “Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục”. Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, các đơn vị, trường học luôn luôn “chủ động, linh hoạt’’ để xây dựng phương án dạy học phù hợp, tận dụng được “thời gian vàng” để triển khai hoạt động dạy, học và hoạt động giáo dục khác hiệu quả, đúng tiến độ năm học.

Tiếp tục rà soát, cân đối, bố trí đủ đội ngũ giáo viên để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, trước mắt ưu tiên đối với triển khai ở lớp 1, lớp 2 và lớp 6; huy động các nguồn lực, bố trí kinh phí thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, trước mắt ưu tiên bố trí đủ phòng học 2 buổi/ngày đối với 100% học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 6 năm học 2021 - 2022.

Bước vào năm học 2021 -2022, quy mô, mạng lưới trường, lớp cơ bản ổn định. Toàn tỉnh có 399 trường mầm non, phổ thông và các trung tâm, trong đó có 166 trường MN, 67 trường TH, 42 trường THCS, 80 trường TH và THCS, 24 trường THPT, 06 trường THCS và THPT, 02 trường phổ thông 3 cấp, 01 trường liên cấp mầm non và phổ thông; 01 trường Trẻ em khuyết tật tỉnh…Giáo dục phổ thông có 134.279 HS phổ thông, tăng 1,10% so với năm học trước (Tiểu học 64.947 HS, tăng 5,62%; THCS 43.955 HS, giảm 3,09%; THPT 25.377 HS, giảm 2,29%). Giáo dục mầm non có 166 trường mầm non, nhà trẻ có 7.930 cháu, tăng 14,43%; mẫu giáo có 32.654 HS, giảm 7,50%.

Hiện nay do tình hình dịch COVID-19, TP Đông Hà đang thực hiện Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ nên các cấp học đang học theo hình thức trực tuyến, các địa phương còn lại đang học theo hình thức trực tiếp.

4. Y tế

4.1. Mạng lưới y tế

Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 146 cơ sở y tế (20 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 125 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh), giảm 16 cơ sở do sáp nhập xã, phường, thị trấn nên trạm y tế giảm. Có 2.150 giường bệnh (không kể trạm xá), tăng 6,17%.  

4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực  phẩm

Tại Quảng Trị, công tác phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn được thực hiện một cách chủ động, quyết liệt, khẩn trương và hiệu quả. Từ đầu năm đến cuối tháng Tám dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, đến cuối tháng 8/2021 dịch bùng phát trở lại. Từ đầu năm đến ngày 19/09/2021 trên địa bàn tỉnh đã ghi nhận 172 ca mắc dịch COVID-19, trong đó có 42 ca mắc trong cộng đồng; hiện còn 73 ca bệnh đang được điều trị tại cơ sở y tế. Hiện nay còn 94 trường hợp đang cách ly tại cơ sở y tế, 703 trường hợp đang cách ly tập trung và 3.259 trường hợp cách ly tại nhà, tại nơi lưu trú.

Trên địa bàn tỉnh đang triển khai tiêm đợt 6 vắc xin phòng COVID-19. Tính đến hết ngày 19/9/2021, toàn tỉnh có tổng cộng 61.745 người đã được tiêm vắc xin. Số người đã tiêm mũi 1 là 28.500 người và tiêm đủ 2 mũi là 33.245 người. Tỉ lệ tiêm chủng của tỉnh mới chỉ đạt gần 16% số người trong độ tuổi tiêm chủng.

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh có 334 trường hợp mắc bệnh cúm, 26 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 01 trường hợp mắc bệnh quai bị, 04 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 96 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 16 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, 02 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, 01 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng. Tính chung 9 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh có 4.424 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 28,90% so với cùng kỳ năm trước; 83 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 40,29%; 214 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 40,72%; 15 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 87,07%; 211 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 28,66%; 1.115 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 13,30%; 115 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 1,71%; 01 trường hợp mắc sốt rét, giảm 98,18%; 72 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 95,32%; 38 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, giảm 38,71%. Nhìn chung 9 tháng năm 2021, hầu hết các loại bệnh dịch trên địa bàn tỉnh đều giảm; riêng bệnh thủy đậu đang tăng mạnh so cùng kỳ năm trước; không có trường hợp tử vong do dịch bệnh.

Trong tháng, phát hiện thêm 02 trường hợp nhiễm HIV mới (Gio Linh 01 trường hợp, Triệu Phong 01 trường hợp). Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 265 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 40 bà mẹ). Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 98 người.

Trong tháng trên địa bàn tỉnh không xảy ngộ độc thực phẩm. Tính chung 9 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm (huyện Vĩnh Linh) làm 19 người bị ngộ độc, không có trường hợp tử vong.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong 9 tháng năm 2021, toàn tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt công tác trang trí khánh tiết, tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện quan trọng trong năm 2021: Kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Tân Sửu - năm 2021; 75 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam; 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước; Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026; tuyên truyền kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Kỷ niệm 74 năm Ngày Thương binh, liệt sỹ; Kỷ niệm 76 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9…Các hoạt động đã được triển khai tích cực, hiệu quả, bám sát sự chỉ đạo của cấp trên đồng thời phù hợp với tình hình dịch bệnh COVID-19.

Phối hợp với Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh điều chỉnh, tổ chức biểu diễn ghi hình và phát sóng lại Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Giai điệu mùa Xuân” chào mừng Xuân Tân Sửu năm 2021 trên sóng Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh và trên các kênh thông tin, mạng xã hội để phục vụ nhân dân dịp Tết; tham gia chương trình nghệ thuật “Du xuân” 2021…Tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật, các đợt chiếu phim, tuần phim phục vụ nhân dân tỉnh nhà, phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026 và theo kế hoạch định kỳ. Tuy nhiên, một số hoạt động chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật trong dịp Tết Nguyên đán, Lễ hội Thống nhất non sông và khai trương mùa du lịch biển, đảo năm 2021 phải tạm hoãn hoặc điều chỉnh thời gian, quy mô do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19…Tổ chức 03 lớp truyền dạy nghệ thuật bài chòi tại các địa phương trong tỉnh. Phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh thực hiện chương trình sân khấu hóa “Bảo tồn và lưu giữ nghệ thuật bài chòi trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”.

Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh đã tổ chức 80 buổi chiếu phim, thu hút 21.500 lượt người xem. Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh đã tổ chức 20 buổi biểu diễn, thu hút hơn 6.000 lượt người xem.

Phối hợp tổ chức thành công chương trình nghệ thuật “Hãy yêu nhau đi”, Kỷ niệm 20 năm ngày mất cố Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn.

Đẩy mạnh thực hiện phong trào TDĐKXDĐSVH gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị và công tác gia đình. Toàn tỉnh hiện có 93,1% gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu “Gia đình văn hóa”; 99,4% thôn, làng, bản, tổ dân phố và tương đương được công nhận và giữ vững danh hiệu “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và tương đương; 91,5% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 87,8% xã, phường, thị trấn có Trung tâm văn hóa - thể thao; 81,4% thôn, bản, khu phố có Nhà văn hóa- Khu thể thao; 56,4% xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 54% phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị. 

Thể dục, thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, giai đoạn 2021-2030” tiếp tục được đẩy mạnh, thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở. Chín tháng năm 2021, tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 35,5%; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 27,2%; có 800 câu lạc bộ và điểm tập TDTT trên địa bàn tỉnh, có 03 liên đoàn và hiệp hội.

Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức tốt các giải thể thao như: giải Tennis chào mừng 91 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Tân Sửu - 2021; Giải Bóng đá U11 Cúp QRTV năm 2021. Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức thành công Hội khoẻ Phù Đổng tỉnh Quảng Trị lần thứ VI năm 2021…

Thể thao thành tích cao tiếp tục quan tâm, công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng vận động viên; tập trung các môn thể thao thành tích cao có thế mạnh của tỉnh. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh là 130 VĐV (trong đó có 94 VĐV tuyến năng khiếu, 11 VĐV tuyến trẻ, 25 VĐV tuyến tỉnh). Cử các đội tuyển tham gia thi đấu 04 giải thể thao quốc gia, đạt 25 huy chương các loại (07HCV, 08HCB, 10HCĐ).

Kết quả tổ chức Đại hội TDTT các cấp: Đến nay, toàn tỉnh có 6/9 huyện đã chỉ đạo Đại hội điểm cấp xã; có 6/10 huyện, thị xã, TP tổ chức 10 môn thi đấu trong chương trình Đại hội TDTT cấp huyện, còn lại các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ và huyện đảo Cồn Cỏ chưa tổ chức Đại hội. Đại hội TDTT cấp tỉnh đã tổ chức được 01/15 môn (phân môn) trong chương trình thi đấu.

6. Tình hình thiên tai, cháy nổ và bảo vệ môi trường

Trong tháng 9/2021, bão số 5 gây mưa lũ, ngập lụt, sét, lốc xoáy trên địa  tỉnh làm 61 nhà ở bị hư hại; 723,6 ha lúa bị ngập úng, gãy đổ; 93 ha sắn bị ngập úng; 46,54 ha hoa màu bị thiệt hại…Tính chung 9 tháng năm 2021, địa bàn tỉnh Quảng Trị đã xảy ra 10 đợt thiên tai (01 đợt rét đậm, 02 đợt không khí lạnh tăng cường và 06 đợt giông, lốc sét và bảo số 5) đã làm 02 người chết, 231 căn nhà bị hư hại; 723,6 ha lúa bị ngập úng, gãy đổ; 93 ha sắn bị ngập úng; 46,54 ha hoa màu bị thiệt hại và 02 con bò bị chết…

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 13 vụ cháy; ước tính giá trị thiệt hại 5.925 triệu đồng; không có thiệt hại về người. Tính chung, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 84 vụ cháy, giảm 16,83% (-19 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm 04 người chết và 03 người bị thương; tổng giá trị thiệt hại 1.043,13 triệu đồng, tăng 305,59%.

Trong tháng, phát hiện và xử lý 25 vụ vi phạm môi trường; số tiền xử phạt 350 triệu đồng. Tính chung, từ đầu năm đến nay phát hiện và xử lý 178 vụ vi phạm môi trường, tăng 25,35% (+36 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 1.317 triệu đồng.

7. Tai nạn giao thông

Theo Báo cáo của Ban ATGT tỉnh, tháng 9/2021 (Từ 15/8 đến 14/9/2021), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 17 vụ tai nạn giao thông, làm chết 08 người, bị thương 14 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 88,89% (+8 vụ), số người chết tăng 33,33% (+2 người), số người bị thương tăng 180% (+9 người). Tất cả các vụ tai nạn giao thông tháng 9/2021 đều xảy ra trên đường bộ.

Tính cả quý III/2021 (Từ 15/6 đến 14/9/2021) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 39 vụ tai nạn giao thông, làm chết 15 người, bị thương 30 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 18,18% (+6 vụ), số người chết giảm 40% (-10 người), số người bị thương tăng 76,47% (+13 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông quý III/2021, đường bộ xảy ra 38 vụ, làm chết 15 người và bị thương 30 người, đường sắt xảy ra 01 vụ, không có người chết và bị thương.

Tính chung 9 tháng năm 2021 (Từ 15/12/2020 đến 14/9/2021) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 145 vụ tai nạn giao thông, làm chết 79 người, bị thương 113 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 39,42% (+41 vụ), số người chết tăng 23,44% (+15 người), số người bị thương tăng 68,66% (+46 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông 9 tháng năm 2021, đường bộ xảy ra 142 vụ, làm chết 77 người và bị thương 113 người, đường sắt xảy ra 03 vụ làm chết 02 người.

8. Ảnh hưởng của dịch COVID-19 và tình hình hỗ trợ người dân và DN

Từ cuối tháng 8/2021 trên địa bàn tỉnh dịch COVID-19 bùng phát trở lại, để thực hiện các biện pháp phòng chống dịch; UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó từ ngày 29/8 đến nay có 02 huyện, thành phố (Đakrông và TP Đông Hà) thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 của Thủ tướng Chính phủ, TP Đông Hà thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ; có 29 lượt xã, phường, thị trấn thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 của Thủ tướng Chính phủ và 9 lượt phường thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ.

Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, tính đến 15/9/2021 có 17.052 người từ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh khác trở về địa phương; trong đó, nữ 8.571 người, người từ 15 tuổi trở lên 15.370 người. Trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên, tình trạng hoạt động kinh tế hiện tại có 2.432 người đang làm việc; 9.498 người thất nghiệp, mất việc làm, không được làm việc do phải cách ly, giãn cách; 1.391 người đang đi học; 2.049 người không có nhu cầu làm việc.

 Tỉnh Quảng trị đã thực hiện 02 đợt đón người dân Quảng Trị từ TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai về quê bằng tàu hỏa với gần 900 người thuộc đối tượng ưu tiên theo quy định của tỉnh và có đăng ký nhu cầu.

Triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 theo Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, kết quả như sau: Số người lao động được hỗ trợ 27.164 người với số tiền là 2.874,4 triệu đồng; số đơn vị sử dụng lao động được hỗ trợ 1.446 đơn vị với số tiền 3.409,2 triệu đồng; Số người dân được hỗ trợ 435 người với số tiền là 297,5 triệu đồng.

Từ đầu năm đến 15/9/2021, một bộ phận người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19; trên địa bàn tỉnh đã hổ trợ cho 5.959 lượt hộ gia đình chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 với số tiền 5.475,6 triệu đồng (ngân sách TW 889,5 triệu đồng, nguồn khác 4.586,1 triệu đồng) bao gồm: tiền mặt 2.737,8 triệu đồng, trợ giá điện 1.942,8 triệu đồng, trợ giá nước sạch 795 triệu đồng.  

Ngoài ra, tỉnh đã triển khai rà soát, lập danh sách người dân Quảng Trị đang lưu trú, lao động, học tập tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch COVID-19 để hỗ trợ. Hiện có hơn 23.000 người dân đang gặp khó khăn cần hỗ trợ, nhu cầu kinh phí hỗ trợ là hơn 23 tỷ đồng. Tính đến ngày 01/9/2021, nguồn huy động xã hội hóa của toàn tỉnh từ Chương trình “San sẽ yêu thương” là 10 tỷ đồng, đã giải ngân hỗ trợ cho gần 10.000 người, kinh phí đã giải ngân hỗ trợ là 10 tỷ đồng, dự kiến đề xuất chi từ nguồn NSĐP các cấp là khoảng 13 tỷ đồng để tiếp tục hỗ trợ.

► Số liệu KT-XH Quý III và 9 tháng năm 2021

 

  CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ


Hoạt động trong ngành
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 05/11/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2024 - 05/11/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê Quảng Trị - 28/10/2024
Công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 28/10/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 Cục Thống kê Quảng Trị - 18/10/2024
Quyết định về việc công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 11/10/2024
Quyết định về việc công khai quyết toán ngân sách năm 2023 của Cơ quan Cục Thống kê Quảng Trị - 30/08/2024
CÔNG BỐ CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 16/08/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 01/07/2024
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Điều tra 53 DT thiểu số năm 2024

HỎI ĐÁP ĐIỀU TRA KT-XH
CỦA 53 DT THIỂU SỐ

Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê
Mạng riêng của ngành Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013