Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 284
Hôm nay: 2,548
Lượt truy cập: 1,315,937
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021
Cập nhật bản tin: 6/30/2021
            

 

Tỉnh Quảng Trị bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 trong bối cảnh kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi sau nỗ lực nghiên cứu và triển khai tiêm chủng vắc- xin phòng dịch COVID-19 ở nhiều nước trên thế giới. Thương mại toàn cầu, giá cả hàng hóa có xu hướng tăng, thị trường chứng khoán toàn cầu tăng mạnh. Ở trong nước, nhờ kiếm soát tốt dịch COVID-19 nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng tích cực từ cuối quý IV năm 2020, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, thời tiết khá thuận lợi, dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát tốt… là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch COVID-19 bùng phát trở lại ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước và diễn biến phức tạp đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức.

Tại Quảng Trị, dịch COVID-19 bùng phát trở lại nhưng đã được kịp thời khoanh vùng dập dịch, kiểm soát tốt; các ngành kinh tế đang trên đà phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: hậu quả của dịch COVID-19 và thiên tai lũ lụt năm 2020 còn nặng nề; nhiều dự án đầu tư trọng điểm của tỉnh chậm được triển khai; ngành công nghiệp quy mô nhỏ bé, sản phẩm công nghiệp khả năng cạnh tranh thấp; một bộ phận dân cư gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, nhất là khu vực nông thôn, miền núi…Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, ban, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong trong Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; Kết luận số 05-KL/TU ngày 03/12/2020 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 83/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị 6 tháng đầu năm 2021 đạt được những kết quả như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2021 ước tính tăng  6,10% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,17% của 6 tháng đầu năm 2020. Kết quả trên cho thấy hiệu quả của việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa khôi phục phát triển kinh tế".

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2021 (GSS2010) ước tính tăng 6,10% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,69%, đóng góp 1,12 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 9,23%, đóng góp 2,16 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,16%, đóng góp 2,51 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,71%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,69% cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2020 tăng 2%) do vụ Đông Xuân được mùa toàn diện, năng suất lúa cao nhất từ trước đến nay; chăn nuôi tăng trưởng khá do đàn lợn phục hồi sau dịch tả lợn Châu Phi, đàn gia cầm phát triển tốt; ngành lâm nghiệp và thủy sản duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 5,15%, đóng góp 0,81 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành lâm nghiệp tăng 3,32%, đóng góp 0,16 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,46%, đóng góp 0,16 điểm phần trăm.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,23%, cũng cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2020 tăng 8,39%) do dịch COVID-19 được kiểm soát tốt, chuổi cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ trong ngành công nghiệp không bị đứt gãy như trong thời kỳ có dịch; năm nay có một số dự án điện mặt trời, điện gió hoàn thành đi vào hoạt động; tình hình thu hút vốn đầu tư đạt được kết quả khả quan, nhất là đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo…nên khu vực này tăng khá. Trong đó, ngành công nghiệp tăng 9,16%, đóng góp 1,12 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành xây dựng tăng 9,30%, đóng góp 1,04 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ tăng 5,16% cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2020 (6 tháng đầu năm 2020 tăng 3,38%), nhưng thấp hơn mức tăng của cùng kỳ các năm trước đó. Sáu tháng đầu năm nay trên địa bàn tỉnh dịch COVID-19 bùng phát trở lại trong tháng Năm nên phải tạm dừng một số hoạt động dịch vụ để phòng, chống dịch; hơn nữa, dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước nên một số hoạt động dịch vụ bị ảnh hưởng như: lưu trú, du lịch lữ hành, vận tải…Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 6,96%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,14%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; vận tải và kho bãi tăng 6,69%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm...

Về cơ cấu kinh tế: Sáu tháng đầu năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 24,76%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,50%; khu vực dịch vụ chiếm 46,74%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4% (cơ cấu tương ứng của 6 tháng đầu năm 2020 là: 24,99%; 23,43%; 47,58%; 4%).

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Tài chính

Trong 6 tháng đầu năm 2021 hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục phục hồi và phát triển khá; chủ trương tiết kiệm chi tiêu của Chính phủ đã tác động tích cực đến thu, chi ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/6/2021 đạt 71,12% dự toán và tăng 73,02% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách địa phương đạt 39,42% dự toán và giảm 3,15%.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/6/2021 đạt 2.453,65 tỷ đồng, bằng 71,12% dự toán địa phương năm 2021 và tăng 73,02% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.679,19 tỷ đồng, bằng 56,54% dự toán và tăng 35,84%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 767,61 tỷ đồng, bằng 159,92% dự toán và tăng 421,82%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: các khoản thu về nhà, đất 646,72 tỷ đồng, tăng 38,70% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 375,51 tỷ đồng, tăng 40,77%; thuế bảo vệ môi trường 195,56 tỷ đồng, tăng 14,57%; thu phí, lệ phí 146,45 tỷ đồng, tăng 46,70%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 104,84 tỷ đồng, tăng 17,51%; thuế thu nhập cá nhân 92,07 tỷ đồng, tăng 48,22%...

Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/6/2021 đạt 3.611,25 tỷ đồng, bằng 39,42% dự toán địa phương năm 2021 và giảm 3,15% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 308,41 tỷ đồng, bằng 22,02% dự toán và giảm 10,10%; chi thường xuyên 2.162,83 tỷ đồng, bằng 44,37% dự toán và giảm 0,87%. Trong chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.003,57 tỷ đồng, tăng 7,54% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 540,61 tỷ đồng, tăng 1,57%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 182,42 tỷ đồng, giảm 25,06%; chi sự nghiệp kinh tế 172,99 tỷ đồng, giảm 32,93%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 130,58 tỷ đồng, giảm 31,34%...

2.2. Ngân hàng

Trong 6 tháng đầu năm 2021, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn do tác động của dịch COVID-19, thực hiện chính sách hổ trợ lãi suất, vay vốn sản xuất, kinh doanh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới…Tuy mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm nhưng huy động vốn trên địa bàn và dư nợ cho vay tăng trưởng không cao.

Lãi suất cho vay trên địa bàn trong 6 tháng đầu năm 2021 có xu hướng giảm so với quý IV/2020, thị trường tiền tệ ổn định. Hiện lãi suất cho vay VND ngắn hạn phổ biến từ 4,5-8%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn phổ biến 7-10/năm, lãi suất cho vay VND ngắn hạn đối với lĩnh vực ưu tiên phổ biến 4,5%/năm.

Huy động vốn trên địa bàn đến 20/6/2021 đạt 27.355 tỷ đồng, tăng 3,79% (+998 tỷ đồng) so với cuối năm 2020; bao gồm: tiền gửi tiết kiệm 22.436 tỷ đồng, tăng 5,61% (+1.191 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 3.090 tỷ đồng, giảm 5,48% (-179 tỷ đồng); huy động khác 1.139 tỷ đồng, giảm 6,33% (-77 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 690 tỷ đồng, tăng 10,05% (+63 tỷ đồng). Ước tính đến 30/6/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 27.400 tỷ đồng, tăng 3,96% so với cuối năm 2020.

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 20/6/2021 đạt 38.511 tỷ đồng, tăng 5% (+1.833 tỷ đồng) so với cuối năm 2020; bao gồm: dư nợ cho vay ngắn hạn 17.888 tỷ đồng, chiếm 46,45% tổng dư nợ và tăng 6,33% (+1.065 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 20.623 tỷ đồng, chiếm 53,55% và tăng 3,87% (+768 tỷ đồng). Ước tính đến 30/6/2021, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đạt 38.550 tỷ đồng, tăng 5,1% so với cuối năm 2020.

Nợ xấu đến 20/6/2021 là 694 tỷ đồng, chiếm 1,8% tổng dư nợ. Ước tính đến 30/6/2021, nợ xấu chiếm 1,8% tổng dư nợ.

3. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 2,23% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 4,24% của cùng kỳ năm trước. Một số yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng là: giá lương thực tăng do các doanh nghiệp tăng cường thu mua lúa gạo phục vụ nhu cầu xuất khẩu, giá dịch vụ giáo dục tăng do tăng học phí, giá xăng dầu điều chỉnh tăng do giá dầu thế giới tăng…nhưng vẫn có những yếu tố làm cho giá tiêu dùng tăng chậm lại như: giá thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào; giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm do ảnh hưởng của dịch COVID-19…

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 2,23% so với  cùng kỳ năm trước. Trong đó có 9/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: giáo dục tăng 7,36%; giao thông tăng 6,95%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,01%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,48%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,92%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,99%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,95% (lương thực tăng 10,57%, thực phẩm giảm 2,17%, ăn uống ngoài gia đình tăng 4%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,49%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,09%. Có 2/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: bưu chính viễn thông giảm 0,71%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 2,15%.

Chỉ số giá vàng bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 20,80% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 6 tháng đầu năm 2021 giảm 1,37% so với cùng kỳ năm trước.

4. Đầu tư  

Vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2021 tăng 18,64% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2020 tăng 15,09%), các dự án điện gió, điện mặt trời…thuộc nguồn vốn ngoài nhà nước được đẩy nhanh tiến độ thi công, để sớm hoàn thành đưa vào hoạt động; riêng tình hình thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước tiếp tục gặp khó khăn do giải ngân vốn chậm, vướng mắc trong thủ tục hành chính và giải phóng mặt bằng…

Vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2021 (giá hiện hành) ước tính đạt 9.253,91 tỷ đồng, tăng 18,64% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn nhà nước 2.274,25 tỷ đồng, tăng 4,32%; vốn ngoài nhà nước 6.898,14 tỷ đồng, tăng 24,02%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 81,52 tỷ đồng, tăng 41,80%.

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 6 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.284,89 tỷ đồng, bằng 31,84% kế hoạch năm 2021 và tăng 2,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh 1.015,03 tỷ đồng, bằng 30,41% kế hoạch và tăng 4,81%; vốn ngân sách huyện 240,49 tỷ đồng, bằng 38,54% kế hoạch và giảm 3,06%; vốn ngân sách xã 29,37 tỷ đồng, bằng 40,13% kế hoạch và giảm 24,75%.

Trong vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư xây dựng cơ bản 7.350,88 tỷ đồng, tăng 30,57% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 1.069,89 tỷ đồng, tăng 0,93%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ 802,76 tỷ đồng, giảm 16,53%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 7,36 tỷ đồng, giảm 93,46%; vốn đầu tư phát triển khác 23,02 tỷ đồng, giảm 35,37%.

Đầu tư vào các Khu CN, Khu KT: Trong 6 tháng đầu năm 2021, có 04 dự án được quyết định chủ trương đầu tư với số vốn đăng ký đầu tư là 7.563,16 tỷ đồng. Đến 15/6/2021, trên địa bàn tỉnh có 174 dự án đã cấp quyết định chủ trương đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đầu tư là 104.583,17 tỷ đồng, trong đó có 116 dự án đã đi vào hoạt động với tổng vốn đăng ký đầu tư 10.317,92 tỷ đồng, 58 dự án đang xây dựng với tổng vốn đăng ký đầu tư là 94.265,25 tỷ đồng.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Trong 6 tháng đầu năm 2021, có 01 dự án FDI đăng ký đầu tư mới với tổng mức đầu tư là 88,26 triệu USD. Đến 15/6/2021, trên địa bàn tỉnh có 17 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 167,95 triệu USD, trong đó có 12 dự án hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký 40,07 triệu USD; 05 dự án đang triển khai xây dựng với tổng vốn đăng ký 127,88 triệu USD.

Về tiến độ giải ngân vốn: Theo số liệu Kho bạc Nhà nước tỉnh, đến 15/6/2021 nguồn vốn ngân sách nhà nước địa phương do tỉnh quản lý đã giải ngân được 672,6 tỷ đồng, đạt 18,48% kế hoạch giao trong năm 2021.

5. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm 2021, mặc dù số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới có giảm so với cùng kỳ năm trước nhưng số doanh nghiệp trở lại hoạt động tăng cao, đây là tín hiệu tích cực trong việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa khôi phục phát triển kinh tế”.

Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, 6 tháng đầu năm 2021 (Từ 01/01-15/6/2021), toàn tỉnh có 194 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 6,73% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 1.602 tỷ đồng, giảm 52,24%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 8,26 tỷ đồng, giảm 7,87%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 132 doanh nghiệp, tăng 24,53% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 21 doanh nghiệp, giảm 8,70%; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 92 doanh nghiệp, tăng 53,33%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2021 (GSS2010) ước tính đạt 2.393,9 tỷ đồng, tăng 4,69% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, nông nghiệp 1.569,6 tỷ đồng, tăng 5,15%; lâm nghiệp 463,7 tỷ đồng, tăng 3,32%; thủy sản 360,6 tỷ đồng, tăng 4,46%.

6.1. Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2021, cây hàng năm vụ Đông Xuân 2020-2021 được mùa; năng suất hầu hết các loại cây trồng đều cao hơn năm trước, cây lúa cho năng suất cao nhất từ trước đến nay. Cây lâu năm do giá bán sản phẩm thiếu ổn định nên phát triển chậm. Chăn nuôi lợn phục hồi nhanh sau dịch tả lợn Châu Phi, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt. 

a. Trồng trọt

a1.  Cây hàng năm

* Kết quả sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân 2020-2021

Sản xuất vụ Đông Xuân năm 2020-2021 đầu vụ gặp một số khó khăn, gần 1.360 ha đất sản xuất nông nghiệp bị bồi lấp, nhiều công trình giao thông, thủy lợi nội đồng bị hư hỏng…do thiên tai, lũ lụt năm 2020 cần phải khắc phục để sản xuất. Tuy nhiên, vụ Đông Xuân năm nay diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi, chủ động được nguồn nước, các đối tượng sâu bệnh gây hại cây trồng thấp so với mọi năm, bố trí lịch thời vụ hợp lý…Các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Sản xuất vụ Đông Xuân năm 2020-2021 được mùa, năng suất hầu hết các loại cây hàng năm đều cao hơn vụ Đông Xuân năm trước, riêng cây lúa cho năng suất cao nhất từ trước đến nay.

Diện tích: Vụ Đông Xuân năm 2020-2021, toàn tỉnh đã gieo trồng được 40.237,2 ha các loại cây hàng năm, tăng 0,21% so với vụ Đông Xuân năm 2019-2020. Trong đó: cây lúa gieo cấy 25.944,6 ha, giảm 0,59%; cơ cấu chủ yếu các loại giống lúa ngắn ngày và cực ngắn như: HN6, Bắc Thơm 7, Khang Dân, HC95, Thiên Ưu 8, HT1…; cây ngô gieo trồng 3.323,2 ha, tăng 13,40%; khoai lang 1.180,4 ha, giảm 13,31%; lạc 3.009,7 ha, tăng 2,35%; rau các loại 3.890,1 ha, tăng 7,22%; đậu các loại 567,4 ha, giảm 6,88%; cây ớt cay 407,3 ha, tăng 4,81%...Diện tích lúa giảm do một số diện tích ở chân ruộng cao, khó tưới được chuyển sang trồng hoa màu; một số diện tích bị vùi lấp do mưa lũ cuối năm 2020 không gieo trồng được. Diện tích ngô, lạc, rau các loại, cây ớt cay…tăng do một số diện tích khoai lang, cây chất bột khác sản xuất kém hiệu quả được chuyển sang trồng các loại cây có hiệu quả cao hơn.

Năng suất: Vụ Đông Xuân năm 2020-2021, năng suất lúa ước tính đạt 61 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha so với vụ Đông Xuân năm trước; năng suất ngô 37,3 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha; năng suất khoai lang 83 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; năng suất lạc 22,7 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha; năng suất rau các loại 108,1 tạ/ha, tăng 1,4 tạ/ha; năng suất đậu các loại 12,4 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha; năng suất cây ớt cay 56,4 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha…

Sản lượng: Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ Đông Xuân năm 2020-2021 ước tính đạt 170.659,6 tấn, tăng 4,01% (+6.578,9 tấn) so với vụ Đông Xuân năm trước; trong đó: lúa 158.262,1 tấn, tăng 3,24% (+4.966,2 tấn); ngô 12.395,5 tấn, tăng 14,95% (+1.611,7 tấn). Sản lượng khoai lang ước tính đạt 9.797,6 tấn, giảm 13,21% (-1.490,9 tấn); lạc 6.832 tấn, tăng 8,07% (+509,9 tấn); rau các loại 42.057,2 tấn, tăng 8,61% (+3.334,6 tấn); đậu các loại 704,6 tấn, giảm 4,63% (-34,2 tấn); ớt cay 2.297,2 tấn, tăng 5,64% (+122,6 tấn)…

a2. Cây lâu năm

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 33.113,1 ha, tăng 0,28% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: cây cà phê 4.435 ha, giảm 3,17%; cây cao su  19.046 ha, tăng 0,16%; cây hồ tiêu 2.527 ha, tăng 0,48%; cây chuối 4.320 ha, tăng 0,12%; cây dứa 350 ha, tăng 0,57%...Sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm 2021:  cao su 8.200 tấn, tăng 7,61% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu 2.238,2 tấn, giảm 15,86%; chuối 45.600 tấn, tăng 2,08%; dứa 3.026 tấn, tăng 4,71%...

b. Chăn nuôi

Ước tính đến 30/6/2021, đàn trâu có 21.895 con, giảm 0,93% so với cùng thời điểm năm 2020; đàn bò có 55.935 con, giảm 1,00%; đàn lợn có 177.135 con, tăng 14,94%, trong đó: đàn lợn thịt có 123.500 con, tăng 22,02%; đàn gia cầm có 3.621,8 nghìn con, tăng 10,70%, trong đó: đàn gà 2.850 nghìn con, tăng 11,26%. Chăn nuôi lợn tiếp tục phục hồi sau dịch tả lợn Châu Phi, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 22.769,7 tấn, tăng 26,51% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu hơi 458 tấn, giảm 0,65%; thịt bò hơi 1490 tấn, tăng 1,22%; thịt lợn hơi 13.122,3 tấn, tăng 38,49%; thịt gia cầm hơi 7.510,9 tấn, tăng 17,35%; sản lượng trứng gia cầm 25.269,1 nghìn quả, tăng 10,04%.

Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến 03/6/2021, dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 294 hộ, 98 thôn, 48 xã, phường, thị trấn của 9 huyện, thị xã, thành phố với tổng số 2.373 con (370 nái, 1.536 lợn thịt và 467 lợn sữa) bị bệnh, chết buộc chôn hủy; trọng lượng tiêu hủy 99.125 kg. Tính đến 03/6/2021 trên địa bàn tỉnh còn 26 xã của 7 huyện, thị xã còn gia súc mắc bệnh chưa qua 21 ngày.

Dịch bệnh lở mồm long móng xuất hiện trên đàn bò và đàn lợn tại 02 xã của huyện Gio Linh với tổng số gia súc mắc bệnh 70 con (58 bò, 12 lợn), tiêu hủy 12 con lợn. Đến ngày 14/5/2021 toàn bộ gia súc mắc bệnh đã lành triệu chứng, hiện nay trên địa bàn tỉnh còn 02 xã có dịch chưa qua 21 ngày.

Ngoài ra, từ đầu năm đến nay bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò tiếp tục xảy ra và phát sinh tại 1.492 hộ, 308 thôn, 79 xã của 09 huyện, thị xã, thành phố với tổng số mắc bệnh 2.532 con (07 trâu, 2.525 bò); tiêu hủy 204 con (01 trâu, 203 bò); tổng trọng lượng tiêu hủy 28.849 kg; số trâu bò điều trị lành 881 con.

6.2. Lâm  nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 chủ yếu là khai thác gỗ rừng trồng phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất khẩu; chăm sóc rừng, tập trung bảo vệ và  phòng chống cháy rừng. Thị trường xuất khẩu các mặt hàng gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ thuận lợi, ngành lâm nghiệp tăng trưởng tuy không cao nhưng ổn định.

Diện tích rừng trồng mới tập trung 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 1.463 ha, tăng 14,30% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 552.500 m3, tăng 3,54%; sản lượng củi khai thác 102.500 ster, giảm 6,22%...

Thiệt hại rừng: Trong 6 tháng đầu năm 2021 trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng.

Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Từ đầu năm đến nay, đã phát hiện 62 vụ vi phạm; xử lý vi phạm 51 vụ; tịch thu 71,1 m3 gỗ. Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật lâm nghiệp trên địa bàn đã được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định.

6.3. Thủy sản

Sản xuất thủy sản 6 tháng đầu năm 2021, thời tiết khá thuận lợi, ngư dân tích cực bám biển nhưng sản lượng thủy sản chỉ tăng 0,93% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tôm nuôi tăng khá, riêng sản lượng khai thác biển đạt thấp do  các luồng cá thu, ngừ…ít xuất hiện hơn.

Diện tích nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 2.927,8 ha, giảm 5,59% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 2.049 ha, giảm 4,51%; nuôi tôm 878,8 ha, giảm 8,04%.

Tổng sản lượng thủy sản tháng 6 tháng đầu năm 2021, ước tính đạt 19.820 tấn, tăng 0,93% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 13.825,7 tấn, tăng 0,34%; tôm 2.155 tấn, tăng 1,83%; thủy sản khác 3.839,3 tấn, tăng 2,58%. Cụ thể:  

Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 3.666 tấn, tăng 3,54% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1.630,7 tấn, tăng 1,51%; tôm 2.020 tấn, tăng 5,21%. Nhìn chung, nuôi trồng thủy sản ở Quảng Trị còn manh mún, quy mô nhỏ; sản lượng thủy sản nuôi trồng hàng năm không lớn và tương đối ổn định.

Sản lượng thủy sản khai thác 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 16.154 tấn, tăng 0,35% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 12.195 tấn, tăng 0,19%; thủy sản khác 3.824 tấn, tăng 2,56%. Sáu tháng đầu năm 2021 khai thác biển mất mùa.

Dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Hiện nay, dịch bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi đã xảy ra tại thành phố Đông Hà với diện tích bị bệnh 0,3 ha.  Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã kịp thời cấp 144 kg hóa chất Chlorine từ nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ hộ nuôi dập dịch nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.

7. Sản xuất công nghiệp 

Sáu tháng đầu năm 2021, dịch COVID-19 bùng phát trở lại nhưng đã kịp thời khoanh vùng dập dịch, kiểm soát tốt nên không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất công nghiệp; chuổi cung ứng, sản xuất và tiêu thụ thuận lợi hơn; một số doanh nghiệp có thêm đơn hàng; hơn nữa, năm nay có một số dự án điện gió, điện mặt trời hoàn thành đi vào hoạt động nên sản xuất công nghiệp đã có những tín hiệu tích cực, tăng trưởng khá. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 ước tính tăng 9,16% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 8,88% của cùng kỳ năm 2020.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 (GSS2010) ước tính đạt 1.271,9 tỷ đồng, tăng 9,16% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng 98,3 tỷ đồng, tăng 5,83%; công nghiệp chế biến, chế tạo 933,4 tỷ đồng, tăng 8,61%; sản xuất và phân phối điện 205 tỷ đồng, tăng 15,88%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 35,2 tỷ đồng, giảm 1,98%.

Một số sản phẩm chủ yếu trong 6 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: bia lon ước tính đạt 5.861 nghìn lít, tăng 102,31%; ván ép 130,26 nghìn m3, tăng 76,28%; gạch khối bằng xi măng, bê tông 33,55 triệu viên, tăng 64,48%; dầu nhựa thông 658 tấn, tăng 36,23%; điện sản xuất 485 triệu kwh, tăng 20,68%; nước hoa quả, tăng lực 5.949 nghìn lít, tăng 15,92%...Một số sản phẩm tăng thấp: đá xây dựng 477,41 nghìn m3, tăng 14,95%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp 1.584 nghìn cái, tăng 12,82%; tấm lợp proximăng 2.654 nghìn m2, tăng 12,18%; gạch xây dựng bằng đất sét nung 79,20 triệu viên, tăng 10,01%; phân hóa học 35,25 nghìn tấn, tăng 9,96%; gỗ cưa hoặc xẻ 33,97 nghìn m3, tăng 7,68%; com lê, quần áo 10.771 nghìn cái, tăng 6,44%; xi măng 140,89 nghìn tấn, tăng 5,23%...Một số sản phẩm giảm: nước máy 6.777 nghìn m3, giảm 0,90%; tinh bột sắn 38,02 nghìn tấn, giảm 1,14%; điện thương phẩm 342 triệu kwh, giảm 2,59%; săm dùng cho xe máy, xe đạp 2.231 nghìn cái, giảm 5,18%; dăm gỗ 150,28 nghìn tấn, giảm 13,50%; thủy hải sản chế biến 1.215 tấn, tăng 2,88%...

8. Thương mại và dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Sáu tháng đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh dịch COVID-19 bùng phát trở lại nhưng đã được kịp thời khoanh vùng, dập dịch, nhanh chóng được kiểm soát nên đã hạn chế ảnh hưởng của dịch bệnh đến hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, dịch COVID-19 tại nhiều tỉnh, thành vẫn diễn biến hết sức phức tạp đã ảnh hưởng đến một số hoạt động dịch vụ như: lưu trú, du lịch lữ hành…Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 9,68% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng cùng kỳ năm 2020, nhưng thấp hơn mức tăng cùng kỳ các năm trước đó.  

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 16.372,84 tỷ đồng, tăng 9,68% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2020 giảm 0,29%). Nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 7,23%.

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 14.343,87 tỷ đồng, chiếm 87,61% tổng mức và tăng 9,12% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn có tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng khá là: gỗ và vật  liêu xây dựng tăng 16%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 14,68%; hàng may mặc tăng 12,68%; phương tiện đi lại tăng 9,36%; lương thực, thực phẩm tăng 6,34%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 1.435,24 tỷ đồng, chiếm 8,76% tổng mức và tăng 13,98% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 24,81 tỷ đồng, giảm 5,67%; doanh thu dịch vụ ăn uống 1.410,43 tỷ đồng, tăng 14,40%.

Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 1,52 tỷ đồng, chiếm 0,01% tổng mức và giảm 57,66% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 592,21 tỷ đồng, chiếm 3,62% tổng mức và tăng 13,80% so với cùng kỳ năm trước.

8.2. Vận tải hành khách và hàng hóa

Sáu tháng đầu năm 2021, thời tiết khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là xây dựng; nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa tăng; tuy nhiên, dịch COVID-19 bùng phát trở lại có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh vận tải. Ước tính 6 tháng đầu năm 2021, số lượt hành khách vận chuyển tăng 17,36% và khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 5,32% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2020 là giảm 10,29% và tăng 10,62%).

Doanh thu vận tải 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 977,56 tỷ đồng, tăng 6,30% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 175,87 tỷ đồng, tăng 11,89%; doanh thu vận tải hàng hóa 691,19 tỷ đồng, tăng 5,12%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 110,50 tỷ đồng, tăng 5,33%.

Số lượt hành khách vận chuyển 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 4.210,7 nghìn HK, tăng 17,36% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 331.747,2 nghìn HK.km, tăng 15,26%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển 6 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 5.477,2 nghìn tấn, tăng 5,32% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 405.202,7 nghìn tấn.km, tăng 8,40%.

8.3. Hoạt động bưu chính, viễn thông

Sáu tháng đầu năm 2021, các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông thực hiện tốt việc quản lý, cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát; đảm bảo an toàn thông tin; đa dạng hóa các gói dịch vụ, nâng cấp băng thông cho thiết bị di động…phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng. Nhìn chung, hoạt động bưu chính, viễn thông trên địa bàn phát triển ổn định.

Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 211 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 84 bưu cục cấp 2 và 3 và điểm phục vụ, 01 bưu cục hệ 1, có 109/125 xã, phường có điểm bưu điện văn hóa xã, 05 đại lý chuyển phát, 04 văn phòng đại diện, 08 thùng thư công cộng độc lập. Có 101/125 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố (trừ huyện đảo Cồn Cỏ) có báo đến trong ngày. Bán kính phục vụ bình quân 2,383 km/1điểm phục vụ; số dân được phục vụ 3.020 người/1 điểm phục vụ.

Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.818 trạm (813 trạm 2G, 1.070 trạm 3G, 935 trạm 4G).

Ước tính đến 30/6/2021, toàn tỉnh có 641.354 thuê bao điện thoại, giảm 3,01% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 8.800 thuê bao cố định, giảm 13,96% và 632.554 thuê bao di động, giảm 2,87%. Số thuê bao Internet hiện có là 102.456 thuê bao, tăng 16,57% so với cùng thời điểm năm trước.

II. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm

Sáu tháng đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh dịch COVID-19 bùng phát trở lại nhưng đã được kịp thời khoanh vùng dập dịch, nhanh chóng kiểm soát; kinh tế của tỉnh tiếp tục phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng khá, cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước. Số lao động có việc làm tăng lên đưa tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.

Lực lượng lao động ước tính đến 30/6/2021 là 351.126 người, tăng 0,69% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: nam 179.724 người, chiếm 51,19%, tăng 0,74%; nử 171.402 người, chiếm 48,81%, tăng 0,64%. Lực lượng lao động khu vực thành thị 109.614 người, chiếm 31,22%, tăng 0,85%; khu vực nông thôn 241.512 người, chiếm 68,78%, tăng 0,62%.

Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính đến 30/6/2021 là 341.286 người, chiếm 97,20% lực lượng lao động, tăng 0,88% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 150.998 người, chiếm 44,24%, tăng 0,35%; khu vực công nghiệp và xây dựng 63.435 người, chiếm 18,59%, tăng 1,52%; khu vực dịch vụ 126.853 người, chiếm  37,17%, tăng 1,20% (cơ cấu lao động năm 2020 là: 44,48%; 18,47% và 37,05%).

Tỷ lệ thất nghiệp chung toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2021 ước tính là 2,80%, giảm 0,19 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, ước tính toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 3.225 người; trong đó: Trung cấp 197 người, Sơ cấp và đào tạo thường xuyên 3.028 người. Giải quyết việc làm mới cho 5.727 lao động; trong đó: 2.412 lao động làm việc trong tỉnh, 2.603 lao động làm việc ngoài tỉnh và 712 lao động làm việc ở nước ngoài (xuất khẩu lao động 632 lao động).

Đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho 1.660 lao động thất nghiệp và đã giải quyết hồ sơ cho 1.388 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền chi trợ cấp hơn 20,6 tỷ đồng.

2. Tình hình đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

2.1. Đời sống dân cư

Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2020 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều đến cuối năm 2020 trên địa bàn tỉnh có 12.505 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 7,03% và 11.210 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 6,30%.

Tính đến ngày 15/5/2021, toàn tỉnh có 38.163 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Trong đó: 166 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 19 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 808 người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, hộ nghèo; 14.057 người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên; 1.044 đối tượng đơn thân nuôi con nhỏ, hộ nghèo; 17.626 người khuyết tật; 4.331 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT ĐB nặng; 21 hộ gia đình, cá nhân nhận kinh phí chăm sóc trẻ em không nơi nương tựa; 14 hộ gia đình nhận kinh phí chăm sóc  người cao tuổi; 77 người nhận kinh phí chăm sóc con nkt nặng, đặc biệt nặng.

Sáu tháng đầu năm 2021, kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng khá. Sản xuất vụ Đông Xuân được mùa, ngành chăn nuôi phục hồi sau dịch tả lợn Châu Phi, sản xuất công nghiệp đạt được kết quả tích cực…Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn. Tính đến nay có 57/101 xã (56,4%) và 01 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Đầu năm 2021, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa phương tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo. Bước vào năm 2021, do tác động tiêu cực của dịch COVID-19 và thiệt hại thiên tai, lũ lụt năm 2020 một bộ phận dân cư đời sống có khó khăn; tuy nhiên, công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện nên tình hình thiếu đói trong dân trong 6 tháng đầu năm không xảy ra.

2.2. An sinh xã hội

Trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã trao tặng tổng số 95.928 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác với tổng kinh phí là 52.451,4 triệu đồng; trong đó: hổ trợ hộ nghèo ăn Tết 12.505 suất quà với tổng kinh phí 6.368 triệu đồng.

Ngoài ra, 6 tháng đầu năm 2021 tỉnh đã phân bổ 1.625,72 tấn gạo của Chính phủ hổ trợ để cứu trợ cho 22.631 lượt hộ gia đình (tương ứng 108.448 khẩu) có hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo không có hộ gia đình nào bị thiếu đói trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu và thời kỳ giáp hạt năm 2021.

Thực hiện hỗ trợ về nhà ở bị thiệt hại do thiên tai theo Nghị quyết số 165/2020/NQ-CP, toàn tỉnh có 196 hộ gia đình bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra trong tháng 10/2020 với kinh phí được hỗ trợ là 4,21 tỷ đồng (trong đó: 75 hộ gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trôi hoàn toàn với mức hỗ trợ 40 triệu đồng/nhà; 121 hộ gia đình có nhà ở bị hư hỏng nặng với mức hỗ trợ 10 triệu đồng/nhà).

Tính từ đầu năm đến 30/5/2021, Quỹ “Vì người nghèo” các cấp trong tỉnh huy động được hơn 17,862 tỷ đồng. Ban vận động Quỹ “Vì người nghèo” các cấp trong tỉnh đã hỗ trợ xây dựng mới 132 nhà Đại đoàn kết, 9 nhà “Nghĩa tình Cựu chiến binh trị giá trên 3,74 tỷ đồng; hỗ trợ sửa chữa 32 nhà trị giá 387,5 triệu đồng; hỗ trợ phát triển sản xuất cho 67 hộ gia đình trị giá 185,5 triệu đồng; hỗ trợ cho 580 em học sinh nghèo trị giá 237,4 triệu đồng; hỗ trợ khám chữa bệnh cho 224 người trị giá 135,5 triệu đồng, hỗ trợ khó khăn 4.737 suất quà trị giá 2,6 tỷ đồng; xây dựng 01 trường Mầm non trị giá 5 tỷ đồng; hỗ trợ 8 nồi cháo tình thương cho bệnh viện và các trung tâm y tế cấp huyện trị giá 95 triệu đồng, hỗ trợ khác trị giá 1,36 tỷ đồng.

Công tác vận động, cứu trợ thiên tai, rủi to, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra được Ủy ban mặt trận các cấp quan tâm thực hiện. Tính đến nay, nguồn kết dư của năm 2020 và tiếp nhận năm 2021 (từ nguồn đăng ký năm 2020) là gần 80 tỷ đồng. Ban Cứu trợ tỉnh đã giải ngân hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai với tổng giá trị hơn 41,86 tỷ đồng. Trong đó, hỗ trợ 43 công trình dân sinh với tổng giá trị hơn 23,868 tỷ đồng; 6 công trình nhà tránh lũ với tổng giá trị hơn 10,4 tỷ đồng; hỗ trợ xây dựng 116 nhà ở trị giá 4,64 tỷ đồng; cứu trợ khẩn cấp hơn 2,96 tỷ đồng.

3. Giáo dục - đào tạo

Bước vào năm học 2020 -2021, quy mô, mạng lưới trường, lớp học tiếp tục được tổ chức, sắp xếp lại từng bước hợp lý. Tính đến tháng 6/2021, toàn tỉnh có 400 trường mầm non, phổ thông và các trung tâm (379 trường công lập và 21 trường tư thục), trong đó có: 166 trường mầm non; 67 trường TH, 43 trường THCS, 80 trường TH và THCS, 24 trường THPT, 06 trường THCS và THPT, 02 trường PT 3 cấp TH, THCS và THPT, 01 trường liên cấp mầm non và phổ thông; 01 trường Trẻ em khuyết tật tỉnh; 09 trung tâm GDNN-GDTX cấp huyện; 01 Trung tâm GDTX, Tin học, Ngoại ngữ tỉnh. Giáo dục mầm non có 42.216 cháu. Giáo dục phổ thông có 130.866 HS, trong đó: TH có 61.558 HS, THCS có 44.670 HS, THPT có 24.638 HS.

Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được quan tâm. Tính đến 15/6/2021, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 193/368 (chỉ tính khối các trường công lập), đạt tỷ lệ 52,4%, trong đó: Mầm non: có 92/147 trường, đạt tỷ lệ 62,6%; Tiểu học có 38/67 trường, đạt tỷ lệ 56,7%; TH&THCS có 34/80 trường, đạt tỷ lệ 42,5%; THCS có 19/43 trường, đạt tỷ lệ 44,2%; THPT có 10/24 trường, đạt tỷ lệ 41,7%; THCS&THPT có 0/7 trường.

Công tác phổ cập giáo dục - xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả tích cực. Tính đến 15/6/2021, tỉnh Quảng Trị duy trì vững chắc kết quả đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đạt mức độ 3; tỷ lệ xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh đạt chuẩn phổ cập THCS: có 8 xã đạt Mức độ 1; 30 xã đạt Mức độ 2; 87 xã đạt Mức độ 3; 02 huyện đạt Mức độ 1; 04 huyện đạt Mức độ 2; 04 huyện đạt Mức độ 3. Tỉnh Quảng Trị đạt Mức độ 1 về phổ cập giáo dục THCS.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để phát triển phẩm chất năng lực học sinh như: tổ chức các chuyên đề cấp tỉnh đổi mới phương pháp dạy học các môn học cấp THPT, trong đó nhiều chuyên đề về giáo dục STEM. Tổ chức thành công Cuộc thi khoa học kỹ thuật khối học sinh trung học cấp tỉnh, Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh cấp học tiểu học và Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp THPT cấp tỉnh; tổ chức Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2020-2021…

Hội thi Tiếng Anh cấp tỉnh năm học 2020 - 2021 có 164 học sinh tham gia; Khối THCS có 12 đội, Khối THPT có 23 đội; 03 đội đạt giải Nhất gồm: Phòng GDĐT Đông Hà, Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn và Trường THPT Đông Hà.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hoá quốc gia lớp 12 THPT tại tỉnh Quảng Trị, có 52 thí sinh dự thi, 28 học sinh đạt giải, chiếm tỷ lệ 52,8% (gồm 04 giải nhì, 12 giải ba và 12 giải khuyến khích). Em Nguyễn Thế Long, học sinh lớp 12, Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn đạt giải Nhì môn Hóa học được chọn tham dự kỳ thi chọn đội tuyển Olympic năm 2021…

Trong 6 tháng đầu năm 2021, tỉnh Quảng Trị đã 2 lần cho học sinh các cấp nghĩ học để phòng chống dịch COVID-19 trong các đợt dịch bùng phát trở lại.

Tính đến ngày 03/6/2021, công tác dạy và học năm học 2020-2021 các cấp học kết thúc; kết thúc thi tuyển vào trường chuyên Lê Quý Đôn cho năm học 2021-2022. Hiện nay Sở Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xét tuyển cho cấp THPT; xây dựng phương án thi tốt nghiệp THPT năm 2021; tổ chức Hội nghị thi tốt nghiệp THPT năm 2021 và triển khai công tác tuyển sinh năm học 2021 - 2022.

4. Y tế

4.1. Tình hình khám, chữa bệnh

Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 146 cơ sở y tế (20 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 125 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh). Có 2.150 giường bệnh (không kể trạm xá), tăng 6,17%.

Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng chuyên môn; có 3.113 cán bộ ngành y, tăng 3,05% so với cùng kỳ năm trước (trong đó có 625 bác sĩ trở lên, tăng 0,64%); có 244 cán bộ ngành dược, tăng 6,55% (trong đó có 72 dược sỹ có trình độ cao đẳng, đại học, tăng 10,77%).

Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Tuy nhiên, do thực hiện các biện pháp để phòng chống dịch COVID-19 nên số lượt người khám bệnh và số bệnh nhân điều trị nội trú tại các cơ sở y tế đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Sáu tháng đầu năm 2021, ước tính có 345.688 lượt người khám bệnh, giảm 5,54% so với cùng kỳ năm trước; 60.521 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, giảm 3,61%.

4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực  phẩm

Công tác phòng chống dịch COVID-19 được tiến hành khẩn trương, chủ động và quyết liệt. Trên địa bàn tỉnh từ ngày 30/4 đến 14/5/2021 ghi nhận 06 ca mắc dịch COVID-19, trong đó có 03 ca mắc trong cộng đồng liên quan đến ổ dịch thành phố Đà Nẵng và 03 ca bệnh được cách ly sau khi nhập cảnh. Có 111 trường hợp F1 và 923 trường hợp là F2, tất cả đều được cách ly theo quy định. Bên cạnh việc tuân thủ các biện pháp phòng chống dịch COVID-19 của BCĐ trung ương, BCĐ phòng chống dịch của tỉnh cũng đã đưa ra nhiều biện pháp cấp bách, quyết liệt phòng, chống dịch. Đến nay tình hình dịch bệnh trên địa bàn đang được kiểm soát tốt, các ca bệnh đều đã xuất viện. Từ ngày 15/5 đến 19/6/2021 không ghi nhận thêm trường hợp mắc dịch COVID-19 nào.

Đến 17/6/2021 còn 01 trường hợp đang cách ly tại cơ sở y tế, 729 trường hợp đang cách ly tập trung và 1.493 trường hợp cách ly tại nhà, tại nơi lưu trú.

Từ tháng 5 đến nay tỉnh đã và đang khẩn trương triển khai công tác tiêm phòng vắc xin cho các đối tượng ưu tiên theo Nghị quyết 21/NQ-CP ngày 26/02/2021 của Chính phủ. Theo đó: Đợt 1, triển khai tiêm 4.800 liều vắc xin (mũi 1) cho một số đối tượng thuộc lực lượng tuyến đầu chống dịch, hoàn thành trước ngày 15/5/2021. Đợt 2, tổng số vắc xin phân bổ cho tỉnh là 17.720 liều theo quyết định 2499/QĐ-BYT ngày 20/5/2021 của Bộ Y tế và Công văn 804/VSDTTW ngày 24/5/2021 của Viện Vệ sinh dịch tể Trung ương, triển khai từ ngày 16/6/2021.

Từ đầu năm đến 20/5/2021 tỉnh đã tiến hành xét nghiệm Realtime RT- PCR cho 11.930 lượt người, dự kiến đến hết tháng 6 tiến hành xét nghiệm thêm cho 2.010 lượt người đưa tổng số lượt người xét nghiệm Realtime RT- PCR trong 6 tháng đầu năm 2021 là 13.940 lượt người.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh có 3.267 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 20,20% so với cùng kỳ năm trước; 63 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 39,42%; 140 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 33,96%; 08 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 79,49%; 191 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 13,69%; 747 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, tăng 9,69%; 71 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, tăng 4,41%; 63 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 76,32%; 34 trường hợp mắc tay chân miệng, tăng 142,86%...Không có trường hợp tử vong dịch bệnh.

Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 260 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 40 bà mẹ), có 70 người chuyển sang giai đoạn AIDS. Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 98 người. Toàn tỉnh đang điều trị ARV cho 142 bệnh nhân HIV/AIDS.

Sáu tháng đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm (huyện Vĩnh Linh) làm 19 người bị ngộ độc, không có trường hợp tử vong.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong 6 tháng đầu năm 2021, toàn tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt công tác trang trí khánh tiết, tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện quan trọng trong năm 2021: Kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Tân Sửu - năm 2021; 75 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam; 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước; Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026; tuyên truyền kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh…Các hoạt động đã được triển khai tích cực, hiệu quả, bám sát sự chỉ đạo của cấp trên đồng thời phù hợp với tình hình dịch bệnh COVID-19. Tính đến ngày 30/5/2021, trên địa bàn toàn tỉnh đã thực hiện treo 895 cụm pano, áp phích, 25 pano tấm lớn, 1698 băng rôn và 12.820 cờ các loại.

Phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh điều chỉnh, tổ chức biểu diễn ghi hình và phát sóng lại Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Giai điệu mùa Xuân” chào mừng Xuân Tân Sửu năm 2021 trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và trên các kênh thông tin, mạng xã hội để phục vụ nhân dân dịp Tết; tham gia chương trình nghệ thuật “Du xuân” 2021…Tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật, các đợt chiếu phim, tuần phim phục vụ nhân dân tỉnh nhà, phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026 và theo kế hoạch định kỳ. Tuy nhiên, một số hoạt động chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật trong dịp Tết Nguyên đán, Lễ hội Thống nhất non sông và khai trương mùa du lịch biển, đảo năm 2021 phải tạm hoãn hoặc điều chỉnh thời gian, quy mô do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh đã tổ chức 80 buổi chiếu phim, thu hút 20.000 lượt người xem. Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh đã tổ chức 15 buổi biểu diễn, thu hút 6.000 lượt người.

Phối hợp tổ chức thành công chương trình nghệ thuật “Hãy yêu nhau đi” kỷ niệm 20 năm ngày mất cố Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn.

Đẩy mạnh thực hiện phong trào TDĐKXDĐSVH gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị. Toàn tỉnh hiện có 793/797 làng, bản, khu phố được công nhận văn hóa, đạt tỷ lệ 99,4%; có 806/880 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 91,5%; có 159.192/170.886 gia đình văn hoá, đạt tỷ lệ 93,1%; 87,8% trung tâm VHTT xã đạt chuẩn theo quy định; 81,4% nhà văn hóa, khu thể thao thôn đạt chuẩn theo quy định; 56,4 % xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới (57/101 xã); 54% phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị (13/24 phường, thị trấn). 

Thể dục, thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, giai đoạn 2021-2030” tiếp tục được đẩy mạnh, thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở. Sáu tháng đầu năm 2021, tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 35,5%; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 27,2%; có 800 câu lạc bộ và điểm tập TDTT trên địa bàn tỉnh, có 03 liên đoàn và hiệp hội.

Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức tốt các giải thể thao như: giải Tennis chào mừng 91 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Tân Sửu - 2021; Giải Bóng đá U11 Cúp QRTV năm 2021. Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức thành công Hội khoẻ Phù Đổng tỉnh Quảng Trị lần thứ VI năm 2021…

Thể thao thành tích cao tiếp tục quan tâm, công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng vận động viên; tập trung các môn thể thao thành tích cao có thế mạnh của tỉnh. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh là 130 VĐV (trong đó có 94 VĐV tuyến năng khiếu, 11 VĐV tuyến trẻ, 25 VĐV tuyến tỉnh). Cử các đội tuyển tham gia thi đấu 03 giải thể thao quốc gia, đạt 25 huy chương các loại (07HCV, 08HCB, 10HCĐ).

Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức Đại hội Thể dục thể thao các cấp và một số giải thể thao trong khuôn khổ Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Quảng Trị lần thứ VIII năm 2021-2022; Chuẩn bị lực lượng vận động viên tham gia Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022.

6. Tình hình thiên tai, cháy nổ và bảo vệ môi trường

Trong 6 tháng đầu năm 2021, địa bàn tỉnh Quảng Trị đã xảy ra 09 đợt thiên tai (01 đợt rét đậm, 02 đợt không khí lạnh tăng cường và 06 đợt giông, lốc sét) đã làm 02 người chết, 170 căn nhà bị tốc mái, hư hỏng và 02 con bò bị chết.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 33 vụ cháy, giảm 23,26% (-10 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm 03 người chết; tổng giá trị tài sản thiệt hại 4.758 triệu đồng.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, đã phát hiện và xử lý 95 vụ vi phạm môi trường (58 vụ vi phạm khai thác tài nguyên khoáng sản trái phép, xử lý chất thải rắn trong công nghiệp chưa đúng quy định, 24 vụ vi phạm về an toàn thực phẩm và 06 vụ trong kinh doanh thương mại dịch vụ và 07 vụ vi phạm khác), tăng 31,94% (+23 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 446 triệu đồng.

7. Tai nạn giao thông

Theo Báo cáo của Ban ATGT tỉnh, 6 tháng đầu năm 2021 (Từ 15/12/2020 đến 14/6/2021) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 106 vụ tai nạn giao thông, làm chết 64 người, bị thương 83 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 51,43% (+36 vụ), số người chết tăng 64,10% (+25 người), số người bị thương tăng 69,39% (+34 người). Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông 6 tháng đầu năm 2021, đường bộ xảy ra 104 vụ, làm chết 62 người và bị thương 83 người, đường sắt xảy ra 02 vụ làm chết 02 người.

Tóm lại: Sáu tháng đầu năm 2021, tỉnh Quảng Trị gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội: vừa khôi phục phát triển kinh tế, vừa thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 bảo vệ sức khỏe nhân dân; khắc phục hậu quả nặng nề do lũ lụt gây ra trong năm 2020; các dự án trọng điểm của tỉnh triển khai chậm; nhu cầu đầu tư cho phát triển là rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp …Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, sự giám sát chặt chẽ của HĐND tỉnh, sự nỗ lực và quyết tâm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được những kết quả tích cực: Tăng trưởng kinh tế đạt khá, thu ngân sách trên địa bàn đạt kết quả khả quan, sản xuất vụ Đông Xuân được mùa, ngành chăn nuôi phục hồi nhanh, sản xuất công nghiệp tăng trưởng tích cực, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả nhất định…

► Số liệu KT-XH 6 tháng năm 2021

  

  CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ


Hoạt động trong ngành
Quyết định về việc công khai quyết toán ngân sách năm 2023 của Cơ quan Cục Thống kê Quảng Trị - 30/08/2024
CÔNG BỐ CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 16/08/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 01/07/2024
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Điều tra 53 DT thiểu số năm 2024

HỎI ĐÁP ĐIỀU TRA KT-XH
CỦA 53 DT THIỂU SỐ

Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê
Mạng riêng của ngành Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013