1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
1.1. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng diễn ra trong điều kiều thời tiết nắng nóng kéo dài, nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm, gió Tây Nam thổi mạnh đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng. Trong tháng các địa phương tập trung thu hoạch lúa Hè Thu trà sớm; lúa Hè Thu trà chính vụ chuẩn bị chín, cho thu hoạch; lúa trà muộn đang làm đồng, trổ bông. Các loại cây trồng khác phát triển tốt. Chăn nuôi phát triển theo chiều hướng tốt, đàn lợn phục hồi nhanh đến cuối tháng 8/2021 ước tính tăng 31,13% so với cùng thời điểm năm trước, đàn gia cầm tăng 12,45%. Tuy nhiên, dịch tả lợn Châu Phi phát sinh trở lại, bệnh viêm da nổi cục trên trâu bò… bùng phát đã ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành chăn nuôi.
a. Trồng trọt
* Tiến độ sản xuất nông nghiệp đến ngày 15/8/2021
Tính đến ngày 15/8/2021, toàn tỉnh đã gieo cấy 50.096,9 ha lúa, giảm 1,11% cùng kỳ năm trước; trong đó: lúa Đông Xuân 25.944,6 ha, giảm 0,59%; lúa Hè Thu 22.580,3 ha, giảm 0,13%; lúa Mùa 1.572 ha, giảm 19,44%. Cây ngô gieo trồng 4.383,2 ha, tăng 14,58% so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 1.512,1 ha, giảm 13,91%; sắn 12.438 ha, tăng 3,56%; lạc 3.289,4 ha, tăng 2,36%; rau các loại 5.364,4 ha, tăng 5,56%; đậu các loại 1.610,3 ha, tăng 1,58%...Diện tích gieo cấy lúa giảm chủ yếu là do lúa Mùa giảm mạnh. Lúa Mùa chủ yếu là lúa nương rẩy thuộc hai huyện miền núi Hướng Hóa và ĐaKrông, hiện nay do đất nương rẩy bị bạc màu trồng lúa kém hiệu quả nên các địa phương chuyển sang trồng sắn, chuối, cao su...; cây khoai lang giảm do kém hiệu quả nên được chuyển sang trồng các loại cây khác.
Tình hình sâu bệnh trên cây hàng năm:
Trên cây lúa: chuột, diện tích nhiễm 612 ha; tỉ lệ hại phổ biến 5-10%, nơi cao 15-20%; bệnh khô vằn, diện tích nhiễm 1.104 ha, tỷ lệ bệnh phổ biến 10-30%, nơi cao 40-50%; bệnh bạc lá vi khuẩn, diện tích nhiễm 293 ha, tỷ lệ bệnh phổ biến 10-20%, nơi cao 50-60%; bệnh lem lép hạt, diện tích nhiễm 150 ha, tỷ lệ bệnh phổ biến 5-10%, nơi cao 15-20%; sâu cuốn lá nhỏ, diện tích nhiễm 88 ha, mật độ phổ biến 10-20 con/m2, nơi cao 25 con/m2; rầy các loại, diện tích nhiễm 215 ha, mật độ phổ biến 700-1.000 con/m2, nơi cao 2.000 - >3.000 con/m2. Ngoài ra, bệnh vàng, khô đầu lá sinh lý gây hại nhiều nơi; bệnh đốm nâu, thối thân thối bẹ, nhện gié hại nhẹ một số vùng; sâu đục thân gây hại cục bộ vài nơi.
Trên cây sắn, bệnh khảm lá virus diện tích nhiễm 237,8 ha, tỉ lệ bệnh phổ biến 7-10%, nơi cao 50%, cục bộ có nơi 70-100%; nhện đỏ, diện tích nhiễm 231 ha; rệp sáp bột hồng, gây hại trên một số vườn, diện tích nhiễm 8 ha.
Diện tích gieo trồng một số cây hàng năm chủ yếu
|
Ước thực hiện đến ngày 15/8/2021
(Ha)
|
Ước thực hiện đến 15/8/2021 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
- Lúa
|
50.096,9
|
98,89
|
+ Lúa Đông Xuân
|
25.944,6
|
99,41
|
+ Lúa Hè Thu
|
22.580,3
|
99,87
|
+ Lúa Mùa
|
1.572,0
|
80,56
|
- Ngô
|
4.383,2
|
114,58
|
- Khoai lang
|
1.512,1
|
86,09
|
- Sắn
|
12.438,0
|
103,56
|
- Lạc
|
3.289,4
|
102,36
|
- Rau các loại
|
5.364,4
|
105,56
|
- Đậu các loại
|
1.610,3
|
101,58
|
b. Chăn nuôi
Ước tính đến 31/8/2021, đàn trâu có 21.890 con, giảm 0,27% so với cùng thời điểm năm 2020; đàn bò có 55.940 con, tăng 0,26%; đàn lợn thịt có 132.726 con, tăng 31,13%; đàn gia cầm có 3.679,1 nghìn con, tăng 12,45%; trong đó: đàn gà 2.946,7 nghìn con, tăng 15,04%. Chăn nuôi lợn tiếp tục phục hồi, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt. Hiện nay, giá thức ăn chăn nuôi tăng; dịch bệnh trên gia súc diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành chăn nuôi.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 8/2021 ước tính đạt 3.482,2 tấn, tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 76 tấn, giảm 1,30%; thịt bò 255 tấn, tăng 2,41%; thịt lợn 1.750 tấn, bằng cùng kỳ năm trước; thịt gia cầm 1.401,2 tấn, tăng 18,34%. Sản lượng trứng gia cầm 3.918,5 nghìn quả, giảm 1,35%. Tính chung 8 tháng năm 2021, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 30.309 tấn, tăng 23,91% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 611 tấn, giảm 0,65%; thịt bò 2.035 tấn, tăng 3,30%; thịt lợn 16.948,2 tấn, tăng 28,21%; thịt gia cầm 10.714,8 tấn, tăng 23,79%. Sản lượng trứng gia cầm 32.415,4 nghìn quả, tăng 5,33%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 8 và 8 tháng năm 2021 tăng mạnh là do chăn nuôi lợn, gà có hiệu quả nên người chăn nuôi tăng tổng đàn.
Tình hình dịch bệnh: Trong tháng, từ ngày 16/7 đến 15/8/2021, bệnh dịch tả lợn Châu Phi xảy ra tại 18 hộ, 5 thôn, 9 xã của 3 huyện (Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong), với tổng số 96 con (23 nái, 73 lợn thịt) bị bệnh, chết buộc chôn hủy, trọng lượng tiêu hủy 6.083 kg. Quy trình chôn hủy được thực hiện đúng quy định, có sự giám sát của cơ quan thú y. Tính đến 17h ngày 15/8/2021, trên địa bàn tỉnh còn 9 xã của 3 huyện có dịch chưa qua 21 ngày.
Bệnh Viêm da nổi cục trên trâu bò: Trong tháng phát sinh 13 con bò bị bệnh, chết và tiêu hủy 6 con. Tính đến ngày 15/8/2021, có 2.353 con trâu, bò được điều trị lành. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn 23 xã, thị trấn của 05 huyện có dịch Viêm da nổi cục trên trâu bò chưa qua 21 ngày. Số bò đang điều trị 103 con.
Các dịch bệnh khác: Toàn tỉnh có 20 con trâu, bò mắc bệnh Tụ huyết trùng trâu bò (không co trường hợp chết), 46 con lợn mắc bệnh Tụ huyết trùng lợn (chết 06 con), 33 con lợn mắc bệnh Phó thương hàn lợn (chết 03 con), 15 con lợn mắc bệnh sưng phù đầu (chết 02 con), 189 con lợn mắc bệnh tiêu chảy (chết 05 con).
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng
|
Ước
tháng 8/2021
(Tấn)
|
Ước
8 tháng năm 2021
(Tấn)
|
So với cùng kỳ năm 2020 (%)
|
Tháng 8/2021
|
8 tháng năm 2021
|
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng
|
3.482,2
|
30.309,0
|
106,82
|
123,91
|
- Thịt trâu
|
76,0
|
611,0
|
98,70
|
99,35
|
- Thịt bò
|
255,0
|
2.035,0
|
102,41
|
103,30
|
- Thịt lợn
|
1.750,0
|
16.948,2
|
100,00
|
128,21
|
- Thịt gia cầm
|
1.401,2
|
10.714,8
|
118,34
|
123,79
|
|
|
|
|
|
|
1.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp tháng 8/2021 chủ yếu tập trung khai thác gỗ rừng trồng phục vụ nhu cầu xuất khẩu và nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Trong tháng, thời tiết nắng nóng kéo dài, gió Tây Nam thổi mạnh nên rất dể xảy ra cháy rừng; các cơ quan chức năng, các công ty lâm nghiệp và các địa phương tăng cường công tác phòng, chống cháy rừng. Hiện nay, rừng được trồng chủ yếu các loại giống dâm hom và nuôi cấy mô nên các công ty lâm nghiệp, địa phương tranh thủ thời tiết thuận lợi tiến hành trồng rừng theo kế hoạch. Diện tích rừng trồng mới tập trung 8 tháng năm 2021 ước tính tăng 2,20% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng gỗ khai thác tăng 3,18%.
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 8/2021 ước tính đạt 921 ha, giảm 4,76% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 250 nghìn cây, tăng 25%; sản lượng gỗ khai thác 79.650 m3, tăng 1,88%; sản lượng củi khai thác 19.980 ster, tăng 7,50%. Tính chung 8 tháng năm 2021, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 3.952 ha, tăng 2,20% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 1.720 nghìn cây, tăng 18,62%; sản lượng gỗ khai thác 757.130 m3, tăng 3,18%; sản lượng củi khai thác 139.130 ster, tăng 1,83%.
Thiệt hại rừng: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 05 vụ cháy rừng (Vĩnh Linh 02 vụ, Cam Lộ 02 vụ, Hải Lăng 01 vụ), diện tích rừng bị thiệt 21,1 ha, ước tính giá trị thiệt hại 746,4 triệu đồng. Tính chung 8 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 07 vụ cháy rừng, giảm 22,22% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị cháy 27,46 ha, giảm 34,15%.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Từ đầu năm đến nay đã phát hiện 94 vụ vi phạm lâm luật, xử lý vi phạm 92 vụ, tịch thu 96,4 m3 gỗ các loại; xảy ra 07 vụ phá rừng, diện tích rừng bị phá 0,99 ha. Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật lâm nghiệp trên địa bàn đã được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định.
Trồng rừng và khai thác lâm sản
|
Ước tháng 8/2021
|
Ước 8 tháng năm 2021
|
So với cùng kỳ năm 2020 (%)
|
Tháng 8/2021
|
8 tháng năm 2021
|
1. Trồng rừng tập trung (Ha)
|
921
|
3.952
|
95,24
|
102,20
|
2. Số cây LN trồng phân tán (1000 cây)
|
250
|
1.720
|
125,00
|
118,62
|
3. Sản lượng gỗ khai thác (M3)
|
79.650
|
757.130
|
101,88
|
103,18
|
4. Sản lượng củi khai thác (Ster)
|
19.980
|
139.130
|
107,50
|
101,83
|
1.3. Thủy sản
Tháng 8/2021, thời tiết nắng nóng kéo dài đã phát sinh dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính và bệnh đốm trắng tôm nuôi. Ngành chức năng đã kịp thời cấp chlorine cho các hộ nuôi để dập dịch, ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Trong tháng các địa phương tập trung thu hoạch cá, tôm nuôi trước mùa mưa bảo. Khai thác thủy sản diễn biến bình thường, một số tàu ngư dân trúng cá thu…Sản lượng thủy sản tháng 8/2021 ước tính tăng 0,77% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng thủy sản 8 tháng năm 2021 tăng 0,86%.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 8/2021 ước tính đạt 3.810 tấn, tăng 0,77% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 2.815 tấn, tăng 0,68%; tôm 657 tấn, tăng 1,39%; thủy sản khác 338 tấn, tăng 0,30%. Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 27.080,5 tấn, tăng 0,86% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 19.297,2 tấn, tăng 0,26%; tôm 3.196 tấn, tăng 1,56%; thủy sản khác 4.587,3 tấn, tăng 2,97%. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 8/2021 ước tính đạt 1.228 tấn, tăng 1,57% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 580 tấn, tăng 1,75%; tôm 645 tấn, tăng 1,42%. Tính chung 8 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 5.636,5 tấn, tăng 2,20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 2.617,2 tấn, tăng 1,44%; tôm 2.999 tấn, tăng 2,85%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 8/2021 ước tính đạt 2.582 tấn, tăng 0,39% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 2.235 tấn, tăng 0,40%; thủy sản khác 335 tấn, tăng 0,30%. Tính chung 8 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 21.444 tấn, tăng 0,51% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, cá 16.680 tấn, tăng 0,07%; thủy sản khác 4.567 tấn, tăng 2,95%.
Dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Từ đầu tháng 8/2021 đến nay dịch bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính và Đốm trắng trên tôm nuôi xảy ra tại 02 xã, thị trấn (xã Vĩnh Sơn và TT Cửa Tùng ) của huyện Vĩnh Linh với tổng diện tích bị bệnh 17,4 ha. Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã kịp thời cấp 5.242 kg hóa chất Chlorine từ nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ hộ nuôi dập dịch nhằm ngăn chặn và hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.
Sản lượng thủy sản
|
Ước tháng 8/2021
(Tấn)
|
Ước 8 tháng năm 2021
(Tấn)
|
So với cùng kỳ năm 2020 (%)
|
Tháng 8/2021
|
8 tháng năm 2021
|
Tổng sản lượng thủy sản
|
3.810,0
|
27.080,5
|
100,77
|
100,86
|
1. Chia theo loại thủy sản
|
|
|
|
|
- Cá
|
2.815,0
|
19.297,2
|
100,68
|
100,26
|
- Tôm
|
657,0
|
3.196,0
|
101,39
|
101,56
|
- Thủy sản khác
|
338,0
|
4.587,3
|
100,30
|
102,97
|
2. Chia theo nuôi trồng, khai thác
|
|
|
|
|
- Nuôi trồng
|
1.228,0
|
5.636,5
|
101,57
|
102,20
|
- Khai thác
|
2.582,0
|
21.444,0
|
100,39
|
100,51
|
2. Sản xuất công nghiệp
Tháng 8/2021, mặc dù trên địa bàn tỉnh dịch COVID-19 đang được kiểm soát tốt; nhưng trên phạm vi cả nước dịch COVID-19 lần thứ tư với biến chủng mới diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến chuổi cung ứng, tiêu thụ nên chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 1,85% so với tháng trước. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp tháng Tám và 8 tháng năm 2021 tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước do trên địa bàn tỉnh dịch COVID-19 được kiểm soát tốt nên sản xuất công nghiệp ít bị ảnh hưởng hơn 8 tháng năm 2020. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2021 ước tính tăng 13,74% và chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2021 tăng 9,89% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2021 ước tính giảm 1,85% so với tháng trước và tăng 13,74% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 1,85% và tăng 17,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,48% và tăng 9,05%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,01% và tăng 32,02%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,30% và tăng 4,35%.
Tính chung 8 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 9,89% so với cùng kỳ năm trước (8 tháng năm 2020 tăng 5,36%). Trong đó, ngành khai khoáng tăng 8,43% (8 tháng năm 2020 tăng 13,15%); công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,28% (8 tháng năm 2020 tăng 4,29%); sản xuất và phân phối điện tăng 18,09% (8 tháng năm 2020 tăng 7,67%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,93% (8 tháng năm 2020 tăng 1,56%). Ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao do năm nay có một số dự án điện gió, điện mặt trời hoàn thành đi vào hoạt động. Ngành khai khoáng tăng khá do nhu cầu vật liệu xây dựng tăng nên khai thác, đá, cát sỏi tăng. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khá do một số sản phẩm như: Ván ép, gạch khối bằng xi măng, bia lon, đá xây dựng, nước hoa quả tăng lực tiêu thụ tốt…
Trong ngành công nghiệp cấp 2, một số ngành trọng điểm có chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng cao là: sản xuất đồ uống tăng 30,49%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 20,03%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,09%; khai khoáng khác tăng 17,44%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 14,35%. Tuy nhiên, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 2,84%; sản xuất, chế biến thực phẩm giảm 7,96%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 8,52%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 47,41%...
Chỉ số sản xuất công nghiệp
|
Tháng 8/2021 so với tháng 7/2021
(%)
|
Tháng 8/2021 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
Toàn ngành công nghiệp
|
98,15
|
113,74
|
109,89
|
- Khai khoáng
|
98,15
|
117,45
|
108,43
|
- Công nghiệp chế biến, chế tạo
|
97,52
|
109,05
|
108,28
|
- Sản xuất và phân phối điện
|
100,01
|
132,02
|
118,09
|
- Cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải
|
100,30
|
104,35
|
101,93
|
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: ván ép tăng 61,58%; gạch khối bằng xi măng tăng 57,35%; bia lon tăng 46,66%; điện sản xuất tăng 21,98%; đá xây dựng tăng 19,16%; nước hoa quả, tăng lực tăng 18,22%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 14,43%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 13,51%; gạch xây dựng bằng đất sét nung tăng 13,33%. Một số sản phẩm so với cùng kỳ năm trước giảm: thủy hải sản chế biến giảm 13,19%; dăm gỗ giảm 7,85%; tinh bột sắn giảm 4,08%; điện thương phẩm giảm 1,37%...
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/8/2021 giảm 0,08% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 0,58% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,12% và giảm 2,75%, lao động khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 0,28% và tăng 1,67%, lao động khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,09% và tăng 4,61%. Xét theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,57% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,30% so với cùng thời điểm năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,22% và giảm 0,18%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,75% và tăng 7,03%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,39% và tăng 0,20%.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong 8 tháng năm 2021, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số vốn đăng ký giảm; số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của dịch COVID-19 kéo dài, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Tính chung 8 tháng năm 2021 (1/1-16/8/2021), số doanh nghiệp thành lập mới giảm 26,27% so với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 22,66%.
Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, từ 01/8-16/8/2021 toàn tỉnh có 14 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 168,9 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp 12,06 tỷ đồng. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 11 doanh nghiệp, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 02 doanh nghiệp, số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 03 doanh nghiệp.
Tính chung 8 tháng năm 2021 (Từ 01/01-16/8/2021), toàn tỉnh có 261 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 26,27% (-93 DN) so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 4.059,5 tỷ đồng, giảm 34,44%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp 15,55 tỷ đồng, giảm 11,09%. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 157 doanh nghiệp, tăng 22,66% (+29 DN) so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 31 doanh nghiệp, bằng cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 110 doanh nghiệp, tăng 41,03% (+32 DN). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả, khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19 kéo dài…
4. Đầu tư
Tháng 8/2021 thời tiết khá thuận lợi, dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt nên vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tăng 23,39% so với tháng trước và tăng 11,05% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 8 tháng năm 2021 đạt thấp so với kế hoạch (45,99%) và chỉ tăng 2,10% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 8/2021 ước tính đạt 352,84 tỷ đồng, tăng 23,39% so với tháng trước và tăng 11,05% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 291,61 tỷ đồng, tăng 28,94% và tăng 16,14%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 57,50 tỷ đồng, giảm 1% và giảm 7,09%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 3,73 tỷ đồng, tăng 117,87% và giảm 21,64%.
Tính chung 8 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.874,72 tỷ đồng, bằng 45,99% kế hoạch năm 2021 và tăng 2,10% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.531,80 tỷ đồng, bằng 45,33% kế hoạch và tăng 7,67%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 313,46 tỷ đồng, bằng 50,24% kế hoạch và giảm 13,97%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 29,46 tỷ đồng, bằng 40,26% kế hoạch và giảm 39,83%. Nguyên nhân chủ yếu vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt thấp so với kế hoạch là do dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động nhân lực; việc giao kế hoạch và giải ngân vốn chậm; vướng mắc thủ tục hành chính và giải phóng mặt bằng; giá vật liệu xây dựng tăng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý…
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý
|
Ước tính tháng 8/2021
(Tỷ đồng)
|
Ước tính 8 tháng năm 2021
(Tỷ đồng)
|
Tháng 8/2021 so với cùng kỳ năm trước
(%)
|
8 tháng
năm 2021 so với kế hoạch năm 2021 (%)
|
8 tháng
năm 2021 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tổng số
|
352,84
|
1.874,72
|
111,05
|
45,99
|
102,10
|
- Vốn ngân sách cấp tỉnh
|
291,61
|
1.531,80
|
116,14
|
45,33
|
107,67
|
- Vốn ngân sách cấp huyện
|
57,50
|
313,46
|
92,91
|
50,24
|
86,03
|
- Vốn ngân sách cấp xã
|
3,73
|
29,46
|
78,36
|
40,26
|
60,17
|
Vốn đầu tư thực hiện một số dự án lớn từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trong 8 tháng năm 2021 là:
Công trình chuyển tiếp: Dự án phát triển các đô thị dọc hành lang Tiểu vùng sông Mê Kông 224,55 tỷ đồng, Dự án xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản địa phương 25,60 tỷ đồng, Khu tái định cư xã Hải Khê và đường vào khu tái định cư (GĐ1) 18,10 tỷ đồng, Tiểu dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập (WB8) Quảng Trị 13,54 tỷ đồng, Khu đô thị Nam Đông Hà (GĐ3) 10,90 tỷ đồng, Đường liên xã Đakrông - Mò Ó - Triệu Nguyên - Ba Lòng 10,35 tỷ đồng…
Công trình khởi công mới: Đường Trần Bình Trọng (đoạn từ đập ngăn mặn Sông Hiếu đến QL9) 17,52 tỷ đồng, Cơ sở hạ tầng khu dân cư Tây Bắc Hòa Lý, thị trấn Cửa Tùng 12,65 tỷ đồng, Giải phóng mặt bằng dự án khu đô thị Thương mại - Dịch vụ Nam Đông Hà 10,87 tỷ đồng, Dự án khắc phục hậu quả mưa lũ, khôi phục sản xuất 10,10 tỷ đồng…
Tiến độ giải ngân vốn: Theo số liệu Kho bạc Nhà nước tỉnh tính đến 15/8/2021: Nguồn vốn NSNN địa phương do tỉnh quản lý đã giải ngân 1.060 tỷ đồng (bao gồm cả vốn kéo dài năm 2020 sang năm 2021) đạt 27,08% so với kế hoạch vốn chung; trong đó, riêng vốn kế hoạch giao năm 2021 đã giải ngân 881,10 tỷ đồng, đạt 24,20% kế hoạch năm 2021.
5. Thương mại và dịch vụ
5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 8/2021, mặc dù dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt, nhưng trên phạm vi cả nước dịch bệnh diễn biến phức tạp; một bộ phận người dân đi làm ăn ở các tỉnh phía Nam trở về địa phương. Tỉnh đã tăng cường một số biện pháp nhằm phòng chống dịch lây lan trên địa bàn; hơn nữa, người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh nên thắt chặt chi tiêu…Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8/2021 giảm 4,87% so với tháng trước và tăng 14,24% so với cùng kỳ năm trước (tháng 8/2020 thực hiện giản cách xã hội TP Đông Hà). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng năm 2021 ước tính tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8/2021 ước tính đạt 2.795,60 tỷ đồng, giảm 4,87% so với tháng trước và tăng 14,24% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa 2.498,23 tỷ đồng, giảm 2,42% và tăng 11,20%; doanh thu lưu trú và ăn uống 215,95 tỷ đồng, giảm 21,79% và tăng 61,72%; du lịch lữ hành không phát sinh doanh thu; doanh thu dịch vụ khác 81,42 tỷ đồng, giảm 20,56% và tăng 21,48%.
Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 22.206,05 tỷ đồng, tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước (8 tháng năm 2020 tăng 0,84%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,90%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng năm nay tăng khá là do dịch COVID-19 trên địa bàn được kiểm soát tốt; năm 2020, trong tháng Tư và tháng Tám trên địa bàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 19.493,01 tỷ đồng, chiếm 87,78% tổng mức và tăng 9,18% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá như: gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,63%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 11,92%; hàng may mặc tăng 9,92%; lương thực, thực phẩm tăng 7,52%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 1.936,97 tỷ đồng, chiếm 8,72% tổng mức và tăng 13,50% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu dịch vụ dịch vụ lưu trú 31,68 tỷ đồng, giảm 7,65%; doanh thu dịch vụ ăn uống 1.905,29 tỷ đồng, tăng 13,93%. Doanh thu dịch vụ lưu trú giảm do ảnh hưởng của dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 1,52 tỷ đồng, chiếm 0,01% tổng mức và giảm 71,23% so với cùng kỳ năm trước. Du lịch lữ hành của Quảng Trị từ tháng 5/2021 đến nay không phát sinh doanh thu do ảnh hưởng của dịch COVID-19.
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 774,55 tỷ đồng, chiếm 3,49% tổng mức và tăng 12,23% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
|
Ước tháng 8/2021
( Tỷ đồng)
|
Ước 8 tháng
năm 2021
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tổng mức
(Tỷ đồng)
|
Cơ cấu
(%)
|
Tháng 8/2021
|
8 tháng năm 2021
|
Tổng số
|
2.795,60
|
22.206,05
|
100,00
|
114,24
|
109,63
|
- Bán lẻ hàng hóa
|
2.498,23
|
19.493,01
|
87,78
|
111,20
|
109,18
|
- Lưu trú và ăn uống
|
215,95
|
1.936,97
|
8,72
|
161,72
|
113,50
|
- Du lịch lữ hành
|
-
|
1,52
|
0,01
|
-
|
28,77
|
- Dịch vụ khác
|
81,42
|
774,55
|
3,49
|
121,48
|
112,23
|
5.2. Vận tải hành khách và hàng hóa
Tháng 8/2021, thời tiết khá thuận lợi cho hoạt động vận tải; dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt nên hoạt động vận tải nội tỉnh đạt khá; tuy nhiên, dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước, các tuyến vận tải đi và đến các tỉnh thành có dịch tạm ngừng hoạt động nên vận tải hành khách và hàng hóa trong tháng giảm sút so với tháng trước, nhất là vận tải hành khách. Tuy nhiên, vân tải hành khách và hàng hóa tháng Tám và 8 tháng năm 2021 tăng khá so với cùng kỳ năm trước do tháng 8/2020 thực hiện giản cách xã hội thành phố Đông Hà. Ước tính hành khách vận chuyển tháng 8/2021 tăng 54,53% so với cùng kỳ năm trước, hàng hóa vận chuyển tăng 31,40%. Tính chung 8 tháng năm 2021, hành khách vận chuyển tăng 14,39% so với cùng kỳ năm trước, hàng hóa vận chuyển tăng 5,26%.
Doanh thu vận tải tháng 8/2021 ước tính đạt 156,93 tỷ đồng, giảm 4,64% so với tháng trước và tăng 20,16% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm, doanh thu vận tải hành khách 20,31 tỷ đồng, giảm 25,05% và tăng 133,81%; doanh thu vận tải hàng hóa 118,96 tỷ đồng, giảm 0,74% và tăng 13,02%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 17,66 tỷ đồng, tăng 0,26% và tăng 6,04%. Tính chung 8 tháng năm 2021, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.302,90 tỷ đồng, tăng 7,59% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm, doanh thu vận tải hành khách 225,86 tỷ đồng, tăng 16,21%; doanh thu vận tải hàng hóa 928,39 tỷ đồng, tăng 6,09%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 148,65 tỷ đồng, tăng 5,04%.
Số lượt hành khách vận chuyển tháng 8/2021 ước tính đạt 446,9 nghìn HK, giảm 26,07% so với tháng trước và tăng 54,53% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 34.235,3 nghìn HK.km, giảm 29,47% và tăng 61,32%. Tính chung 8 tháng năm 2021, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 5.240 nghìn HK, tăng 14,39% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 417.554,3 nghìn HK.km, tăng 12,12% (số liệu tương ứng 8 tháng năm 2020 là giảm 17,78% và giảm 21,66%).
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 8/2021 ước tính đạt 1.245,8 nghìn tấn, giảm 2,34% so với tháng trước và tăng 31,40% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 75.665,9 nghìn tấn.km, giảm 2,74% và tăng 11,98%. Tính chung 8 tháng năm 2021, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 8.079,1 nghìn tấn, tăng 5,26% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 558.346,2 nghìn tấn.km, tăng 7,95% (số liệu tương ứng 8 tháng năm 2020 là tăng 9,81% và tăng 3,22%).
Vận tải hành khách và hàng hóa
|
Ước tháng 8/2021
|
Ước 8 tháng năm 2021
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tháng 8/2021
|
8 tháng năm 2021
|
1. Vận tải hành khách
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn HK)
|
446,9
|
5.240,0
|
154,53
|
114,39
|
- Luân chuyển (Nghìn HK.Km)
|
34.235,3
|
417.554,3
|
161,32
|
112,12
|
2. Vận tải hàng hóa
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn tấn)
|
1.245,8
|
8.079,1
|
131,40
|
105,26
|
- Luân chuyển (Nghìn tấn.Km)
|
75.665,9
|
558.346,2
|
111,98
|
107,95
|
5.3. Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Tháng 8/2021, dịch COVID-19 ở trong nước và các nước trong khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; nhiều tỉnh, thành trong cả nước tiến hành cách ly xã hội để phòng chống dịch nên hoạt động kinh doanh lưu trú và du lịch lữ hành gặp rất nhiều khó khăn, nhất là du lịch lữ hành không phát sinh doanh thu. Riêng khách lưu trú chủ yếu là người dân từ các tỉnh, thành phía Nam về địa phương cách ly tại các khách sạn, nhà nghĩ; khách các dự án điện gió đang đầu tư trên địa bàn và khách nội tỉnh.
Số lượt khách lưu trú tháng 8/2021 ước tính đạt 22.645 lượt, giảm 17,19% so với tháng trước và tăng 24,16% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú (chỉ tính khách ngũ qua đêm) 18.793 ngày khách, giảm 10,03% và tăng 26,29%; khách du lịch theo tour không phát sinh. Khách lưu trú trong tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước là do tháng 8/2020 trên địa bàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội thành phố Đông Hà để phòng chống dịch COVID-19.
Tính chung 8 tháng năm 2021, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 179.320 lượt, tăng 5,25% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 133.141 ngày khách, giảm 6,92%; số lượt khách du lịch theo tour 1.642 lượt, giảm 59,82%; số ngày khách du lịch theo tour 2.340 ngày khách, giảm 66,92%.
Khách lưu trú và du lịch lữ hành
|
Ước tháng 8/2021
|
Ước 8 tháng năm 2021
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tháng 8/2021
|
8 tháng năm 2021
|
1. Dịch vụ lưu trú
|
|
|
|
|
- Lượt khách (Lượt khách)
|
22.645
|
179.320
|
124,16
|
105,25
|
- Ngày khách (Ngày khách)
|
18.793
|
133.141
|
126,29
|
93,08
|
2. Dịch vụ du lịch lữ hành
|
|
|
|
|
- Lượt khách (Lượt khách)
|
-
|
1.642
|
-
|
40,18
|
- Ngày khách (Ngày khách)
|
-
|
2.340
|
-
|
33,08
|
6. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2021 giảm 0,11% so với tháng trước. Một số yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng trước là do trong tháng thực hiện tạm dừng hoặc hạn chế hoạt động của các cơ sở kinh doanh ăn uống…để phòng chống dịch, nhu cầu thực phẩm giảm nên giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm; do ảnh hưởng của dịch COVID-19 kinh tế khó khăn, người dân thắt chặt chi tiêu nên nhu cầu về nhóm hàng may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm nên giá giảm…Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2021 tăng 2,17% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,43% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2021 tăng 2,55% so với cùng kỳ năm trước (8 tháng năm 2020 tăng 3,87%).
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2021 giảm 0,11% so với tháng trước, tăng 2,17% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,43% so với cùng kỳ năm trước. Trong mức giảm 0,11% của chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2021 so với tháng trước, có 4/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,43% (lương thực tăng 0,03%, thực phẩm giảm 0,67%); may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,37%; đồ dùng và dịch vụ khác giảm 0,31%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,11%. có 5/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng: giáo dục tăng 0,08%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,14%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15%; giao thông tăng 0,28%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,43%; Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2021 tăng 2,55% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá vàng tháng 8/2021 giảm 0,09% so với tháng trước, tăng 3,68% so với tháng 12 năm trước và tăng 1,47% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 8 tháng năm 2021 tăng 17,41% so với cùng kỳ năm trước (8 tháng năm 2020 tăng 27,96%). Giá vàng trong nước tháng 8/2021 giảm so với tháng trước do giá vàng thế giới giảm.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2021 giảm 0,43% so với tháng trước, giảm 0,94% so với tháng 12 năm trước và giảm 1,10% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 8 tháng năm 2021 giảm 1,26% so với cùng kỳ năm trước (8 tháng năm 2020 giảm 0,41%). Chỉ số giá USD giảm so với tháng trước do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đảm bảo lượng dự trữ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và đô la Mỹ
|
Tháng 8 năm 2021 so với
|
BQ 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tháng 8/2020
(%)
|
Tháng 12/2020
(%)
|
Tháng 7/2021
(%)
|
1. Chỉ số giá tiêu dùng
|
103,43
|
102,17
|
99,89
|
102,55
|
2. Chỉ số giá vàng
|
101,47
|
103,68
|
99,91
|
117,41
|
3. Chỉ số giá đô la Mỹ
|
98,90
|
99,06
|
99,57
|
98,74
|
7. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Mặc dù, tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Trị 8 tháng năm 2021 đạt khá cao so với dự toán; nhất là thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/8/2021 đạt 97,40% dự toán, chi ngân sách địa phương đạt 58,05% dự toán.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến ngày 18/8/2021 đạt 3.360,25 tỷ đồng, bằng 97,40% dự toán địa phương và tăng 76,20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa 2.317,76 tỷ đồng, bằng 78,04% dự toán và tăng 37,70%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 1.034,85 tỷ đồng, bằng 215,59% dự toán và tăng 452,60%. Trong thu nội địa, một số khoản thu lớn như: thu tiền sử dụng đất 817,89 tỷ đồng, tăng 36,12% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 516,57 tỷ đồng, tăng 44,65%; thuế bảo vệ môi trường 300 tỷ đồng, tăng 22,27%; lệ phí trước bạ 155,68 tỷ đồng, tăng 65,06%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 141,18 tỷ đồng, tăng 21,65%...Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt cao so với dự toàn là do năm nay có thêm nguồn thu thuế nhập khẩu linh kiện, thiết bị của các dự án điện gió đang đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/8/2021 đạt 5.318,33 tỷ đồng, bằng 58,05% dự toán địa phương và tăng 3,11% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 452,08 tỷ đồng, bằng 33,70% dự toán và giảm 1,41%; chi thường xuyên 3.068,54 tỷ đồng, bằng 62,95% dự toán và giảm 1,13%. Trong chi thường xuyên, một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.328,18 tỷ đồng, tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 738,18 tỷ đồng, giảm 3,96%; chi sự nghiệp kinh tế 343,69 tỷ đồng, giảm 0,76%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 316,23 tỷ đồng, giảm 12,23%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 180,70 tỷ đồng, giảm 25,72%...Chi ngân sách địa phương đạt thấp so với dự toán là do thực hiện chủ trương siết chặt chi tiêu, đặc biệt là chi thường xuyên của Chính phủ.
Thu, chi ngân sách nhà nước
|
Thực hiện đến 18/8/2021
( Tỷ đồng)
|
Thực hiện đến 18/8/2021 so với dự toán 2021 (%)
|
Thực hiện đến 18/8/2021 so với cùng kỳ năm trước (%)
|
1. Tổng thu NSNN trên địa bàn
|
3.360,25
|
97,40
|
176,20
|
TĐ: - Thu nội địa
|
2.317,76
|
78,04
|
137,70
|
- Thu từ hoạt động XNK
|
1.034,85
|
215,59
|
552,60
|
2. Tổng chi NSNN địa phương
|
5.318,33
|
58,05
|
103,11
|
TĐ: - Chi đầu tư phát triển
|
472,08
|
33,70
|
98,59
|
- Chi thường xuyên
|
3.068,54
|
62,95
|
98,87
|
8. Một số tình hình xã hội
8.1. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Trên địa bàn tỉnh từ 10/5/2021 đến 22/8/2021 chỉ ghi nhận 05 trường hợp lây nhiễm COVID-19 trong cộng đồng. Nhìn chung, dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh đang được kiểm soát tốt, kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh đó, công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp hổ trợ hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và các gia đình gặp khó khăn đột xuất, khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19…nên tình hình thiếu đói trong dân trong tháng Tám và 8 tháng năm 2021 không xảy ra.
Nhân kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh liệt sỹ, đã có 24.861 người có công được tặng quà Chủ tịch nước với số tiền 7.571,7 triệu đồng; lãnh đạo tỉnh đã tổ chức thăm hỏi một số gia đình với 23 suất quà, trị giá mỗi suất quà là 1,3 triệu đồng. Từ đầu năm đến 19/7/2021, toàn tỉnh đã vận động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh xây mới 18 nhà tình nghĩa với kinh phí 1.400 triệu đồng; sửa chữa 16 nhà ở người có công với kinh phí 2.800 triệu đồng; tặng 62 sổ tiết kiệm cho người có công và thân nhân người có công với kinh phí 554 triệu đồng.
Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 như sau:
- Giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho 1.422 đơn vị, số người được giảm 26.627 người với số tiền 1.313,57 triệu đồng.
- Hỗ trợ 67 người đang điều trị COVID-19 với số tiền 51,84 triệu đồng; hỗ trợ 06 người cách ly (F1) với số tiền 2,8 triệu đồng.
- Hỗ trợ 04 đơn vị (người sử dụng lao động) vay vốn để trả lương ngừng việc cho 147 lao động ngừng việc với số tiền 501,33 triệu đồng.
Tỉnh Quảng Trị đã hỗ trợ cho 15.000 hộ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận, với mức hỗ trợ 01 triệu đồng/hộ gia đình, tổng số tiền hỗ trợ là 15 tỷ đồng.
Từ cuối tháng 7 và giữa tháng 8/2021, Tỉnh Quảng trị đã thực hiện 02 đợt đón người dân Quảng Trị từ TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai về quê bằng tàu hỏa với gần 900 người thuộc đối tượng ưu tiên theo quy định của tỉnh và có đăng ký nhu cầu.
8.2. Giáo dục và Đào tạo
Kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 (đợt 1) tỉnh Quảng Trị có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp (trước phúc khảo) đạt 94,23%. Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 (đợt 2), toàn tỉnh có 04 thí sinh dự thi, trong đó 02 thí sinh có nguyện vọng xét đặc cách và 02 thí sinh gửi dự thi tại Quảng Ngãi, hiện nay đang chờ kết quả công bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tổ chức thành công Hội nghị trực tuyến tổng kết năm học 2020 - 2021, triển khai nhiệm vụ năm học 2021 - 2022, trao tặng danh hiệu “Nhà giáo Ưu tú” lần thứ XV năm 2020. Năm 2020, Ngành Giáo dục và Đào tạo Quảng Trị vinh dự có 03 Nhà giáo được Chủ tịch Nước trao tặng Danh hiệu “Nhà giáo Ưu tú” lần thứ XV năm 2020.
Tỉnh đã ban hành Quyết định số 2105/QĐ-UBND ngày 11/8/2021 về khung kế hoạch thời gian năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên. Theo đó, học sinh các cấp tựu trường ngày 01/9/2021; riêng đối với lớp 1, tựu trường ngày 25/8/2021; khai giảng năm học mới vào ngày 05/9 - Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường; ngày 06/9/2021 là ngày bắt đầu học đối với các cấp học. Chủ đề năm học 2021-2022 là “Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục”.
Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, các đơn vị, trường học luôn luôn “chủ động, linh hoạt’’ để xây dựng phương án dạy học phù hợp, tận dụng được “thời gian vàng” để triển khai hoạt động dạy, học và hoạt động giáo dục khác hiệu quả, đúng tiến độ năm học.
Tiếp tục rà soát, cân đối, bố trí đủ đội ngũ giáo viên để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, trước mắt ưu tiên đối với triển khai ở lớp 1, lớp 2 và lớp 6; huy động các nguồn lực, bố trí kinh phí thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, trước mắt ưu tiên bố trí đủ phòng học 2 buổi/ngày đối với 100% học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 6 năm học 2021 - 2022.
Tính đến 15/8/2021, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia toàn tỉnh là 193/368 (chỉ tính khối các trường công lập), đạt tỉ lệ 52,4%, trong đó: Mầm non có 92/147 trường, đạt tỉ lệ 62,6%; Tiểu học có 38/67 trường, đạt tỉ lệ 56,7%; TH&THCS có 34/80 trường, đạt tỉ lệ 42,5%; THCS có 19/43 trường, đạt tỉ lệ 44,2%; THPT có 10/24 trường, đạt tỉ lệ 41,7%; THCS&THPT có 0/7 trường.
8.3. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
* Tình hình dịch COVID-19
Dịch COVID -19 trong nước diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; số ca lây nhiểm trong cộng đồng đang ở mức báo động. Tình trạng một lượng lớn người và phương tiện đi từ vùng dịch trở về hoặc đi qua địa bàn tỉnh, tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm trong cộng đồng.
Tính từ ngày 01/5/2021 đến 22/8/2021, trên địa bàn tỉnh đã ghi nhận 75 ca mắc dịch COVID-19; trong đó có 05 ca mắc trong cộng đồng, 08 ca nhập cảnh được cách ly ngay và 62 ca trở về từ vùng dịch được cách ly tại khu cách ly tập trung. Hiện còn 64 ca bệnh đang được điều trị tại cơ sở y tế.
Tính đến ngày 14/8/2021, còn 48 trường hợp đang cách ly tại cơ sở y tế, 1.860 trường hợp đang cách ly tập trung và 1.758 trường hợp đang cách ly tại nhà, tại nơi lưu trú. Đến hết ngày 16/8/2021, tỉnh Quảng Trị đã tiêm chủng vắc xin COVID-19 cho các đối tượng ưu tiên theo Nghị quyết 21 của Chính phủ, kết quả tiêm chủng như sau: Tiêm được 52.469 đối tượng, trong đó tiêm đủ 02 mũi cho 5.333 đối tượng; tiêm 01 mũi cho 47.136 đối tượng.
Trên địa bàn tỉnh có 142 cơ sở đủ điều kiện tiêm chủng (kể cả cơ sở tư nhân), đáp ứng năng lực tiêm chủng vắc xin phòng dịch với 28.600 liều/ngày.
* Tình hình dịch bệnh khác
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh có 416 trường hợp mắc bệnh cúm, 07 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 36 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 04 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 152 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 09 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, 01 trường hợp mắc bệnh sốt rét, 05 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết. Tính chung 8 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh có 4.090 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 28,07% so với cùng kỳ năm trước; 83 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 37,12%; 188 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 42,15%; 14 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 87,50%; 207 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 31%; 1.019 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 10,77%; 99 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, tăng 7,61%; 01 trường hợp mắc sốt rét, giảm 98,11%; 70 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 95,19%; 37 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, tăng 68,18%. Không có trường hợp tử vong do dịch bệnh.
* Tình hình nhiễm HIV/AIDS
Trong tháng, phát hiện thêm 01 trường hợp nữ giới nhiễm HIV mới (huyện Hải Lăng). Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 264 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 40 bà mẹ). Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 98 người.
* Tình hình ngộ độc thực phẩm
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm lớn. Tính chung 8 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm (huyện Vĩnh Linh) làm 19 người bị ngộ độc, không có trường hợp tử vong.
8.4. Hoạt động văn hóa, thể thao
Tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền, cổ động trực quan Kỷ niệm 76 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9…
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh thu và phát sóng 03 tiết mục hát múa trên kênh QRTV, đồng thời phát trực tiếp trên mạng xã hội để tuyên truyền công tác phòng, chống dịch COVID-19. Phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông biểu diễn chương trình nghệ thuật qua hình thức phát trực tiếp, quay MV tuyên truyền, cổ động phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Chuyển đổi nhiệm vụ chiếu phim phục vụ nhiệm vụ chính trị sang nhiệm vụ tuyên truyền lưu động phòng, chống COVID-19 trong 21 ngày, bắt đầu từ ngày 12/8 trên địa bàn toàn tỉnh. Cấp phát 100 dĩa DVD tuyên truyền về phòng, chống dịch COVID-19 đến các xã, phường, thị trấn.
Chuẩn bị các nội dung tổ chức Đại hội Hội Võ thuật cổ truyền tỉnh Quảng Trị, nhiệm kỳ 2021 - 2025.
8.5. Thiệt hại thiên tai, phòng chống cháy nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không có thiên tai lớn xảy ra. Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 09 đợt thiên tai (01 đợt rét đậm, 02 đợt không khí lạnh tăng cường và 06 đợt giông, lốc sét) đã làm 02 người chết, 170 căn nhà bị tốc mái, hư hỏng và 02 con bò bị chết.
Trong tháng, đã tổ chức 05 lớp huấn luyện nghiệp vụ về PCCC cho 05 cơ sở với 148 người tham gia. Thực hiện Kế hoạch số 92/KH-CAT-PC07 ngày 21/01/2021 của Công an tỉnh Quảng Trị về kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ các chuyên đề, chuyên ngành và công trình xây dựng trong quá trình thi công trên địa bàn tỉnh Quảng Trị năm 2021, đã tiến hành kiểm tra đối với 46 cơ sở, lập 46 biên bản kiểm tra, kiến nghị khắc phục 197 thiếu sót. Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 25 vụ cháy; làm 01 người chết và 03 người bị thương; giá trị tài sản thiệt hại 2.500 triệu đồng. Tính chung, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 71 vụ cháy, giảm 21,11% (-19 vụ) so với cùng kỳ năm trước; làm chết 04 người; 03 người bị thương, tăng 200% (+02 người); giá trị thiệt hại 16.369 triệu đồng, tăng 32,10%.
Trong tháng đã phát hiện và xử lý 27 vụ vi phạm môi trường; chủ yếu là khai thác khoáng sản trái phép, xử lý chất thải rắn trong công nghiệp không đúng quy định, vi phạm về an toàn thực phẩm, phát triển và bảo vệ rừng, kiểm dịch thú y…; số tiền xử phạt 333 triệu đồng. Tính chung, từ đầu năm đến nay phát hiện và xử lý 153 vụ vi phạm môi trường, tăng 77,91% (+67 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 967 triệu đồng, tăng 314,13%.
8.6. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Ban ATGT tỉnh, trong tháng 8/2021 (Từ 15/7/2021 đến 14/8/2021) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 09 vụ tai nạn giao thông, giảm 25% so với tháng trước và giảm 35,71% so với cùng kỳ năm trước; làm chết 02 người, giảm 60% và giảm 83,33%; bị thương 05 người, giảm 28,57% và tăng 25%. Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông trong tháng 8/2021, đường bộ xảy ra 8 vụ, làm chết 02 người, bị thương 05 người; đường sắt xảy ra 01 vụ, không có người chết và bị thương.
Tính chung 8 tháng năm 2021 (Từ 15/12/2020 đến 14/8/2021) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 127 vụ tai nạn giao thông, tăng 33,68% so với cùng kỳ năm trước; làm chết 71 người, tăng 22,41%; bị thương 95 người, tăng 53,23%. Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông 8 tháng năm 2021, đường bộ xảy ra 124 vụ, làm chết 69 người, bị thương 95 người; đường sắt xảy ra 03 vụ, làm chết 02 người.
► Số liệu KT-XH tháng 8 năm 2021
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ