Năm 2020, là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Chủ đề của tỉnh trong năm 2020 là: “Hành động quyết liệt, về đích toàn diện, tạo đà bứt phá”, để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020.
Tỉnh Quảng Trị bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Theo các tổ chức quốc tế và thể chế tài chính, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào suy thoái trong năm 2020. Cùng với đó, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp diễn, căng thẳng chính trị gia tăng giữa Mỹ và Iran, bất đồng nội bộ trong tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ…đã tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định…nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra sớm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; ngành chăn nuôi gặp khó khăn do hậu quả dịch tả lợn Châu Phi; thiệt hại lũ lụt ở miền Trung hết sức nặng nề.
Tại Quảng Trị, dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến hầu hết các ngành và lĩnh vực, nặng nề nhất là ngành du lịch, lưu trú, ăn uống và vận tải. Ngành chăn nuôi vẫn chưa phục hồi do hậu quả của dịch tả lợn Châu Phi năm 2019. Tình hình thiên tai và dịch bệnh diễn biến phức tạp; nhất là bảo, lũ lụt lớn kéo dài, trên diện rộng gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản và sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh…Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, Ban ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Chương trình hành động của UBND tỉnh (ban hành kèm theo Quyết định số 146/QĐ-UBND ngày 15/01/2020) về thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ; Kết luận số 320-KL/TU ngày 04/12/2019 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 31/2019/NQ-HĐND ngày 06/12/2019 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020. UBND tỉnh đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gở khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19 và Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về các biện pháp hổ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Với phương châm vừa phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội; khắc phục hậu quả thiên tai, nổ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020.
Kết quả đạt được trong năm 2020 như sau:
I. KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2020 (GSS2010) ước tính đạt 19.970,9 tỷ đồng, tăng 3,51% so với năm trước, là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Trong bối cảnh dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến mọi ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội; thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ưu tiên hàng đầu là phòng chống dịch, hy sinh lợi ích kinh tế để đảm bảo tính mạng và sức khỏe của nhân dân; năm 2020 cũng là năm bão, lũ lụt gây thiệt hại nặng nề về sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 3,51% là thắng lợi lớn của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh; khắc phục bão lụt; đồng thời, duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mức tăng trưởng chung, giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ước tính đạt 4.264,5 tỷ đồng, tăng 1,72%, đóng góp 0,37 điểm % vào mức tăng trưởng chung; giá trị tăng thêm khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính đạt 5.060,5 tỷ đồng, tăng 7,70%, đóng góp 1,88 điểm %; giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ ước tính đạt 9.724,2 tỷ đồng, tăng 2,07%, đóng góp 1,02 điểm %; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước tính đạt 921,7 tỷ đồng, tăng 5,24%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,72%. Năm 2020, sản xuất trồng trọt cũng là năm được mùa lúa; nhưng sản xuất chăn nuôi do hậu quả của dịch tả lợn Châu Phi, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuống giảm mạnh và đàn gia súc, gia cầm bị thiệt hại do lũ lụt nên ngành nông nghiệp chỉ tăng 1,94%, đóng góp 0,27 điểm %. Ngành lâm nghiệp do dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ nên sản lượng gỗ khai thác và diện tích rừng trồng mới tập trung có giảm so với năm trước nên chỉ tăng 2,36%, đóng góp 0,10 điểm %. Ngành thủy sản chỉ tăng 0,1% do tác động tiêu cực của dịch COVID-19 và tình hình bão, lũ lụt kéo dài làm cho hoạt động đánh bắt thủy sản bị đình trệ và gây thiệt hại nặng nề về nuôi trồng thủy sản.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,70%, là mức tăng thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Ngành công nghiệp tăng 8,35%, đóng góp 1,01 điểm % vào tốc độ tăng trưởng chung của GRDP; nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp tăng thấp chủ yếu là do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 9,57% do tác động tiêu cực của dịch COVID-19, một số doanh nghiệp khó khăn về nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm nên sản xuất giảm sút. Ngành xây dựng tăng 7,07%, đóng góp 0,87 điểm % thấp hơn năm 2019; nguyên nhân chủ yếu là do tỉnh Quảng Trị 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch COVID-19, lũ lụt kéo dài và tình hình giải ngân vốn đầu tư công không đạt yêu cầu đề ra.
Khu vực dịch vụ chỉ tăng 2,07%, là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Năm 2020, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành dịch vụ; nặng nề nhất là ngành lưu trú và ăn uống; nghệ thuật, vui chơi và giải trí… Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng của GRDP năm 2020 như sau: bán buôn và bán lẻ, sữa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 3,80%, đóng góp 0,35 điểm %; thông tin và truyền thông tăng 4,04%, đóng góp 0,35 điểm %; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,34%, đóng góp 0,30 điểm %; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 21%, làm giảm 0,69 điểm %…
Về cơ cấu kinh tế: Tổng sản phẩm trên địa bàn năm 2020 (GHH) ước tính đạt 34.098,7 tỷ đồng, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 7.451,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,85%; khu vực công nghiệp và xây dựng 8.752,5 tỷ đồng, chiếm 25,67%; khu vực dịch vụ 16.329,9 tỷ đồng, chiếm 47,89%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 1.564,6 tỷ đồng, chiếm 4,59% (cơ cấu tương ứng của năm 2019 là: 21,11%; 24,69%; 49,64%; 4,56%).
GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) năm 2020 ước tính đạt 53,51 triệu đồng, tăng 7,02% so với năm 2019.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2020
|
GRDP
giá HH
(Tỷ đồng)
|
Cơ cấu
(%)
|
GRDP
GSS 2010
(Tỷ đồng)
|
Tốc độ tăng trưởng (%)
|
Tổng số
|
34.098,7
|
100,00
|
19.970,9
|
3,51
|
- Nông, lâm nghiệp và thủy sản
|
7.451,7
|
21,85
|
4.264,5
|
1,72
|
- Công nghiệp và xây dựng
|
8.752,5
|
25,67
|
5.060,5
|
7,70
|
Trong đó: Công nghiệp
|
4.898,9
|
14,37
|
2.518,9
|
8,35
|
- Dịch vụ
|
16.329,9
|
47,89
|
9.724,2
|
2,07
|
- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp SP
|
1.564,6
|
4,59
|
921,7
|
5,24
|
2. Tài chính, ngân hàng
1.1. Tài chính
Năm 2020, do tác động tiêu cực của dịch COVID-19 đến hoạt động sản xuất, kinh doanh nên thu ngân sách nhà nước trên địa bàn bị ảnh hưởng; nhất là nguồn thu từ công, thương nghiệp ngoài quốc doanh. Chi ngân sách nhà nước chủ yếu tập trung bảo đảm chi thường xuyên…
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện năm 2020 đạt 3.405 tỷ đồng, bằng 100% dự toán địa phương năm 2020 và tăng 5% so với năm trước; trong đó: thu nội địa 2.985 tỷ đồng, bằng 101% dự toán địa phương và tăng 8%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 362 tỷ đồng, bằng 80% dự toán địa phương và giảm 24%.
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện năm 2020 đạt 10.601,72 tỷ đồng, bằng 112% dự toán địa phương năm 2020 và tăng 3% so với năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.605,28 tỷ đồng, bằng 106% dự toán và tăng 27%; chi thường xuyên 5.179,27 tỷ đồng, bằng 105% dự toán và tăng 19%.
2.2. Hoạt động ngân hàng
Năm 2020, ngành Ngân hàng triển khai thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, thận trọng phù hợp với các chủ trương của Chính phủ theo Chỉ thị số 01/CT-NHNN. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN Quy định về việc tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hổ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 và Chỉ thị 02/CT-NHNN về các giải pháp cấp bách của ngành Ngân hàng nhằm tăng cường phòng, chống và khắc phục khó khăn do tác động của dịch COVID-19.
Huy động vốn trên địa bàn đến 15/12/2020 đạt 25.569 tỷ đồng, tăng 11,96% (+2.732 tỷ đồng) so với cuối năm 2019; trong đó: tiền gửi tiết kiệm 21.087 tỷ đồng, tăng 15,46% (+2.824 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 2.690 tỷ đồng, tăng 3,07% (+80 tỷ đồng); huy động khác 1.217 tỷ đồng, giảm 13,07% (-183 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 575 tỷ đồng, tăng 1,95% (+11 tỷ đồng).
Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 15/12/2020 đạt 36.073 tỷ đồng, tăng 0,44% (+157 tỷ đồng) so với cuối năm 2019; trong đó: dư nợ cho vay ngắn hạn 16.235 tỷ đồng, tăng 0,58% (+93 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 19.838 tỷ đồng, tăng 0,32% (+64 tỷ đồng).
Nợ xấu đến 15/12/2020 là 572 tỷ đồng, chiếm 1,59% tổng dư nợ. Nguyên nhân nợ xấu tăng chủ yếu một phần do Chương trình cho vay tàu đánh bắt xa bờ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP không thu hồi được, phát sinh nợ xấu; một số doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng gặp khó khăn về tài chính không thu hồi được nợ.
3. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2020 tăng 3,13% so với năm trước, cao hơn mức tăng của năm 2019. Nguyên nhân chủ yếu làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng cao là do giá gạo xuất khẩu tăng và có đơn hàng nên các doanh nghiệp tăng cường thu mua lúa, gạo; nguồn cung thịt lợn giảm do hậu quả của dịch tả lợn Châu Phi; hạn hán, mưa lũ kéo dài nên nguồn cung rau quả giảm…làm cho giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao; giá một số mặt hàng tiêu dùng tăng do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên không nhập khẩu được; giá nhóm giáo dục tăng do thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP và giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng do tăng giá dịch vụ khám chữa bệnh theo Thông tư 13/2019/TT-BYT…Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố kiềm chế chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2020 là: giá xăng dầu điều chỉnh giảm và nhu cầu đi lại giảm do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên giá nhóm giao thông giảm; nhu cầu du lịch giảm do thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch nên giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm; giá nhóm bưu chính, viễn thông giảm…
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Mười Hai giảm 0,19% so với tháng trước và tăng 0,42% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý IV/2020 tăng 1,03% so với quý trước và tăng 1,41% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2020 tăng 3,13% so với năm trước (năm 2019 tăng 2,32%). Trong đó có 3/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: giao thông giảm 10,42%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 2,37%; bưu chính viễn thông giảm 1,36%. Có 8/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,72%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,85%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,88%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,16%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,33%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,49%; giáo dục tăng 5,48%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 9,11% (lương thực tăng 10,70%, thực phẩm tăng 8,83%, ăn uống ngoài gia đình tăng 9,36%).
Chỉ số giá vàng tháng Mười Hai giảm 2,18% so với tháng trước và tăng 32,85% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý IV/2020 tăng 3,01% so với quý trước và tăng 33,91% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân năm 2020 tăng 29,89% so với năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Mười Hai giảm 0,16% so với tháng trước và giảm 0,80% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý IV/2020 giảm 0,07% so với quý trước và giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân năm 2020 giảm 0,52% so với năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và đô la Mỹ
|
Tháng 12/2020 so với
|
Bình quân quý IV/2020 so với cùng kỳ năm 2019 (%)
|
Bình quân năm 2020 so với năm 2019 (%)
|
Tháng 12/2019
(%)
|
Tháng
11/2020
(%)
|
1. Chỉ số giá tiêu dùng
|
100,42
|
99,81
|
101,41
|
103,13
|
2. Chỉ số giá vàng
|
132,85
|
97,82
|
133,91
|
129,89
|
3. Chỉ số giá đô la Mỹ
|
99,20
|
99,84
|
99,26
|
99,48
|
4. Đầu tư
Năm 2020, để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020; Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ các công trình/dự án chuyển tiếp từ năm 2019 và khởi công năm 2020. Bên cạnh đó, kế hoạch vốn đầu tư công của tỉnh năm 2020 được giao tăng 42% so với năm 2019; các cấp, các ngành đã nổ lực tập trung tháo gở khó khăn về thủ tục, giải phóng mặt bằng…để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo của Chính phủ nên vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2020 (GHH) ước tính tăng 15,01% so với năm trước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 tỉnh Quảng Trị 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch và lũ lụt kéo dài làm chậm tiến độ các công trình/dự án nên vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2020 tăng thấp hơn mức tăng của năm 2019 và không đạt kế hoạch đề ra (năm 2019 tăng 24,8%).
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý IV/2020 (giá hiện hành) ước tính đạt 5.308,5 tỷ đồng, tăng 10,39% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 1.621,8 tỷ đồng, tăng 27,30%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 3.664,1 tỷ đồng, tăng 5,20%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 22,6 tỷ đồng, giảm 56,51%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý IV/2020, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.001,6 tỷ đồng, tăng 74,08% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn ngân sách tỉnh 817,8 tỷ đồng, tăng 94,08%; vốn ngân sách huyện 158,9 tỷ đồng, tăng 16,14%; vốn ngân sách xã 24,9 tỷ đồng, tăng 44,95%.
Tính chung, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2020 (giá HH) ước tính đạt 19.040,9 tỷ đồng, tăng 15,01% so với năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 5.393,5 tỷ đồng, tăng 23,41%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 13.553,1 tỷ đồng, tăng 12,37%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 94,3 tỷ đồng, giảm 24,20%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước năm 2020, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 3.292,3 tỷ đồng, bằng 94,67% kế hoạch năm 2020 và tăng 47,39% so với năm trước, bao gồm: vốn ngân sách tỉnh 2.619,2 tỷ đồng, bằng 92,98% kế hoạch và tăng 60,24%; vốn ngân sách huyện 590 tỷ đồng, bằng 102,10% kế hoạch và tăng 13,18%; vốn ngân sách xã 83,1 tỷ đồng, bằng 100,06% kế hoạch và tăng 6,73%.
Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2020, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước tính đạt 13.736,4 tỷ đồng, tăng 10,01% so với năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 2.558,8 tỷ đồng, tăng 7,69%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ 2.445,7 tỷ đồng, tăng 72,09%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 177,3 tỷ đồng, giảm 8,26%; vốn đầu tư phát triển khác 122,7 tỷ đồng, tăng 56,84%.
Đầu tư vào các KCN, KKT: Trong năm 2020, có 21 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư với số vốn đăng ký gần 6 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, tại các KCN, KKT có 168 dự án đã cấp quyết định chủ trương đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 91,1 nghìn tỷ đồng; trong đó có 108 dự án đã đi vào hoạt động với tổng vốn đăng ký 10,1 nghìn tỷ đồng và 60 dự án đang triển khai xây dựng với tổng vốn đăng ký 81 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, có 65 dự án đang nghiên cứu với tổng số vốn dự kiến đăng ký đầu tư là 240,6 nghìn tỷ đồng.
Vốn FDI: Năm 2020, không có dự án FDI đăng ký đầu tư mới; có 02 dự án được nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua lại cổ phần. Hiện nay có 17 dự án FDI còn hiệu lực, trong đó có 15 dự án FDI đang hoạt động.
Về tiến độ giải ngân vốn đầu tư công: Đến 15/12/2020, Kho bạc Nhà nước tỉnh đã giải ngân 2.488,4 tỷ đồng, đạt 65,74% kế hoạch năm 2020; trong đó: vốn đầu tư công do tỉnh quản lý 2.287 tỷ đồng, đạt 64,48% kế hoạch năm 2020.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
|
Ước quý IV/2020
( Tỷ đồng)
|
Ước
năm 2020 (Tỷ đồng)
|
So với cùng kỳ năm 2019 (%)
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
Tổng số
|
5.308,5
|
19.040,9
|
110,39
|
115,01
|
Vốn khu vực Nhà nước
|
1.621,8
|
5.393,5
|
127,30
|
123,41
|
Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân
|
3.664,1
|
13.553,1
|
105,20
|
112,37
|
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
|
22,6
|
94,3
|
43,49
|
75,80
|
5.Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Tháng Mười Hai (Từ 01-16/12), có 10 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 61,9 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 6,19 tỷ đồng. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 08 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 06 doanh nghiệp; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 08 doanh nghiệp.
Tính chung từ đầu năm đến 16/12/2020, toàn tỉnh có 467 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 27,60% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 8.229,2 tỷ đồng, giảm 16,64%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 17,62 tỷ đồng, giảm 0,60%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 189 doanh nghiệp, tăng 48,82% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 56 doanh nghiệp, giảm 23,29%; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 105 doanh nghiệp, giảm 4,55%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2020 diễn ra trong điều kiện thời tiết, khí hậu biến đổi thất thường; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; hậu quả dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 làm cho đàn lợn giảm sâu và chậm phục hồi; dịch COVID-19 tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; lũ lụt kéo dài trên diện rộng gây thiệt hại nặng nề…
6.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
a1. Sản xuất cây hàng năm
Sản xuất cây hàng năm năm 2020 diễn ra trong điều kiện thời tiết không được thuận lợi, đầu vụ Đông Xuân mưa lớn đã làm ngập úng một số diện tích lúa phải gieo cấy lại, một số diện tích các loại cây trồng khác không gieo trồng được; cuối vụ ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc gây mưa lớn, gió mạnh làm ngã đổ một số diện tích lúa ảnh hưởng đến năng suất và gây khó khăn cho khâu thu hoạch. Vụ Hè Thu hạn hán kéo dài nên một số cây trồng không gieo trồng được. Vụ Mùa do ảnh hưởng của bảo, lũ lụt kéo dài trên diện rộng gây thiệt hại...Tuy nhiên, nhờ làm tốt công tác bố trí lịch thời vụ; đảm bảo nguồn nước tưới và sử dụng nguồn nước có hiệu quả, tiết kiệm…Kết quả sản xuất cây hàng năm năm 2020, cây lúa cho năng suất và sản lượng đạt khá; một số cây trồng khác do ảnh hưởng của thời tiết và dịch bệnh nên sản lượng có giảm so với năm trước, nhưng không nhiều.
Diện tích, sản lượng một số cây hàng năm chủ yếu
|
Thực hiện
năm 2019
|
Ước
năm 2020
|
Ước năm 2020 so với năm trước (%)
|
1. Diện tích (Ha)
|
81.694,3
|
81.584,7
|
99,87
|
- Lúa
|
50.477,0
|
50.659,0
|
100,36
|
- Ngô
|
3.810,6
|
3.825,6
|
100,39
|
- Khoai lang
|
2.037,4
|
1.756,5
|
86,21
|
- Sắn
|
11.728,6
|
12.010,7
|
102,41
|
- Lạc
|
3.344,7
|
3.213,6
|
96,08
|
2. Sản lượng (Tấn)
|
|
|
|
* SL lương thực có hạt
|
286.480,7
|
289.498,2
|
101,05
|
- Lúa
|
273.310,5
|
276.502,7
|
101,17
|
- Ngô
|
13.157,7
|
12.994,4
|
98,76
|
- Khoai lang
|
16.643,0
|
14.359,2
|
86,28
|
- Sắn
|
199.898,6
|
201.537,9
|
100,82
|
- Lạc
|
7.058,3
|
6.847,0
|
97,01
|
Năm 2020, ước tính toàn tỉnh gieo trồng được 81.584,7 ha cây hàng năm, giảm 0,13% so với năm trước; trong đó: cây lúa 50.659 ha, tăng 0,36% (Đông Xuân 26.097,9 ha, tăng 0,21%; Hè Thu 22.609,6 ha, tăng 0,20%; vụ Mùa 1.951,5 ha, tăng 4,41%); cơ cấu giống lúa chủ yếu là các loại giống ngắn ngày, cho năng suất và chất lượng cao như: HN6, TL6, AC95, HC95, HT1, Thiên Ưu 8, P6, NA2…; cây ngô gieo trồng 3.825,6 ha, tăng 0,39%; khoai lang 1.756,5 ha, giảm 13,79%; sắn 12.010,7 ha, tăng 2,41%; lạc 3.213,6 ha, giảm 3,92%; rau các loại 5.018,7 ha, tăng 1,64%; đậu các loại 1.585,3 ha, giảm 2,25%...Diện tích khoai lang, lạc, đậu các loại… giảm là do ảnh hưởng của thời tiết không gieo trồng được.
Năng suất lúa ước tính đạt 54,6 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với năm trước (Đông xuân 58,7 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; Hè Thu 53,6 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha; lúa Mùa 10,1 tạ/ha, bằng năm trước); ngô năng suất đạt 34 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha; khoai lang năng suất đạt 81,7 tạ/ha, bằng năm trước; sắn năng suất đạt 167,8 tạ/ha, giảm 2,6 tạ/ha; lạc năng suất đạt 21,3 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; rau các loại năng suất đạt 105,6 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha; đậu các loại năng suất đạt 11,1 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha…
Năm 2020, tổng sản lượng lương thực có hạt ước tính đạt 289.498,2 tấn, tăng 1,05% so với năm trước; trong đó: lúa 276.502,7 tấn, tăng 1,17%; ngô 12.994,4 tấn, giảm 1,24%. Sản lượng khoai lang 14.359,2 tấn, giảm 13,72%; sản lượng sắn 201.537,9 tấn, tăng 0,82%; sản lượng lạc 6.847 tấn, giảm 2,99%; sản lượng rau các loại 53.001,1 tấn, tăng 3,56%; sản lượng đậu các loại 1.764,1 tấn, tăng 10,85%…Sản lượng khoai lang, lạc giảm chủ yếu là do diện tích giảm.
a2. Cây lâu năm
Sản xuất cây lâu năm của tỉnh gặp khó khăn do giá cà phê, hồ tiêu, cao su có tăng nhưng vẫn ở mức thấp chưa hấp dẫn người nông dân đầu tư, thâm canh; cây chuối dể trồng, cho thu nhập khá ổn định đối với người dân miền núi nhưng hiện nay giá bán giảm, khó tiêu thụ; cây dứa cho năng suất khá nhưng khó tiêu thụ nên người dân phá bỏ…Năm 2020, do ảnh hưởng của bão, lũ lụt kéo dài làm cho một số diện tích lâu năm bị thiệt hại đã ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch.
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 33.033 ha, giảm 2,72% so với cùng thời điểm năm trước. Một số cây lâu năm chủ yếu của tỉnh như:
Cây cà phê: diện tích hiện có 4.433,3 ha, giảm 9,27% so với cùng thời điểm năm trước; diện tích thu hoạch 4.253,2 ha, giảm 6,67%; năng suất ước tính đạt 10,7 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha; sản lượng thu hoạch năm 2020 ước tính đạt 4.559 tấn, giảm 17,33%. Diện tích cây cà phê giảm do nhiều diện tích già cổi bị chặt bỏ và trồng cây cà phê hiện nay kém hiệu quả nên nhiều hộ dân chưa muốn tái canh.
Cây cao su: diện tích hiện có 19.045 ha, giảm 1,14% so với cùng thời điểm năm trước; diện tích thu hoạch 13.293 ha, tăng 5,38%; năng suất ước tính đạt 14,4 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha; sản lượng thu hoạch năm 2020 ước tính đạt 19.206 tấn, tăng 7,64%. Diện trích cao su giảm chủ yếu do thanh lý diện tích cao su già cỗi.
Cây hồ tiêu: diện tích hiện có 2.500 ha, giảm 0,31% so với cùng thời điểm năm trước; diện tích thu hoạch 2.270,1 ha, tăng 3,67%; năng suất ước tính đạt 11,7 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha; sản lượng thu hoạch năm 2020 ước tính đạt 2.656 tấn, tăng 0,09%. Diện tích cây hồ tiêu giảm chủ yếu là do năm nay mưa nhiều, tích nước làm thối gốc nên tiêu bị chết.
Cây chuối: diện tích hiện có 4.195,6 ha, giảm 5,29% so với cùng thời điểm năm trước; diện tích thu hoạch 3.990,7 ha, giảm 2,09%; năng suất ước tính đạt 170,1 tạ/ha, giảm 3,1 tạ/ha; sản lượng thu hoạch năm 2020 ước tính đạt 67.879 tấn, giảm 3,87%. Diện tích cây chuối giảm do ảnh hưởng của bão, mưa lũ, giá bán giảm và khó tiêu thụ.
Cây dứa: diện tích hiện có 417,6 ha, giảm 10,85% so với cùng thời điểm năm trước; diện tích thu hoạch 385,8 ha, giảm 11,47%; năng suất ước tính đạt 89,8 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha; sản lượng thu hoạch năm 2020 ước tính đạt 3.463 tấn, giảm 11,7%. Diện tích cây dứa giảm do giá bán thấp và khó tiêu thụ nên người dân chuyển sang trồng các loại cây khác.
b. Chăn nuôi
Sản xuất chăn nuôi năm 2020 gặp khó khăn do hậu quả của dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 nên đàn lợn đầu năm giảm; đàn lợn phục hồi chậm do giá lợn giống khá cao; cuối năm lũ lụt kéo dài, trên diện rộng đã làm một số gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi đã ảnh hưởng đến tổng đàn và sản lượng.
Ước tính đến 31/12/2020, đàn trâu có 22.391 con, giảm 0,04% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 56.601 con, tăng 0,01%; đàn lợn thịt có 123.498 con, tăng 74,4%; đàn gia cầm có 2.990 nghìn con, giảm 1,22%; trong đó: đàn gà 2.250 nghìn con, giảm 1,01%.
Đàn trâu, bò ổn định ở mức thấp do diện tích chăn thả bị thu hẹp; phong trào nuôi bò thịt, nhốt chuồng tại Quảng Trị phát triển chưa mạnh. Đàn lợn tăng cao vì cùng thời điểm năm trước, đàn lợn giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi năm 2019; hiện nay đàn lợn vẫn chưa phục hồi như trước khi có dịch. Đàn gia cầm sau một thời gian phát triển mạnh đến nay do giá bán giảm sút và thiệt hại lũ lụt nên đàn gia cầm có xu hướng chững lại.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng
|
Ước quý IV/2020
(Tấn)
|
Ước
năm 2020
(Tấn)
|
So với cùng kỳ năm 2019 (%)
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng
|
9.994
|
37.737
|
118,10
|
89,85
|
- Thịt lợn
|
6.346
|
21.250
|
136,45
|
77,30
|
- Thịt trâu
|
256
|
1.010
|
106,89
|
104,02
|
- Thịt bò
|
791
|
3.060
|
104,77
|
105,05
|
- Thịt gia cầm
|
2.340
|
12.061
|
85,51
|
117,05
|
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng Mười Hai ước tính đạt 3.189 tấn, tăng 17,45% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 2.120 tấn, tăng 48,17%. Tính cả quý IV/2020, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 9.994 tấn, tăng 18,10% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 6.346 tấn, tăng 36,45%. Tính chung năm 2020, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 37.737 tấn, giảm 10,15% so với năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 21.250 tấn, giảm 22,70%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2020 giảm chủ yếu là do hậu quả của dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 ảnh hưởng đến tổng đàn lợn nên sản lượng thịt lợn xuất chuồng giảm.
Tình hình dịch bệnh chăn nuôi: Từ đầu năm đến 11/12/2020, dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 285 hộ, 103 thôn, 48 xã của 6 huyện, thị xã (Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ và TX Quảng Trị) với tổng số 1.492 con lợn bị bệnh chết, buộc tiêu hủy; trọng lượng tiêu hủy 71,98 tấn. Tính đến ngày 11/12/2020, còn 10 xã của 3 huyện (Gio Linh, Vĩnh Linh và Triệu Phong) có dịch chưa qua 21 ngày. Ngoài ra, dịch cúm gia cầm H5N6 xảy ra ở huyện Vĩnh Linh với 3.205 con gia cầm bị bệnh; tổng số tiêu hủy 1.850 con; dịch lở mồm long móng xảy ra trên đàn trâu bò tại 9 xã của 5 huyện (Cam Lộ, Gio Linh, Đakrông, Vĩnh Linh và Triệu Phong) với tổng số 326 con trâu bò mắc bệnh.
6.2. Lâm nghiệp
Năm 2020, sản xuất lâm nghiệp phát triển ổn định; dịch COVID-19 có ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ nên sản lượng gỗ khai thác và diện tích rừng trồng mới tập trung có giảm so với năm trước.
Trồng rừng và khai thác lâm sản
|
Ước quý IV/2020
|
Ước
năm 2020
|
So với cùng kỳ năm 2019 (%)
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
1. Trồng rừng tập trung (Ha)
|
5.821
|
8.500
|
81,83
|
93,16
|
2. Số cây LN trồng phân tán (1000 cây)
|
1.610
|
2.500
|
100,07
|
104,17
|
3. DT rừng trồng được chăm sóc (Ha)
|
-
|
24.000
|
-
|
108,64
|
4. DT rừng được KN, TS (Ha)
|
1.514
|
3.900
|
111,24
|
99,26
|
5. DT rừng được giao khoán BV (Ha)
|
17.500
|
85.000
|
93,74
|
105,87
|
6. Sản lượng gỗ khai thác (M3)
|
110.228
|
950.000
|
87,34
|
99,89
|
7. Sản lượng củi khai thác (Ster)
|
24.171
|
235.249
|
89,44
|
101,04
|
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Mười Hai ước tính đạt 1.240 ha, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 100 nghìn cây, bằng cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 20.426 m3, tăng 16,53%; sản lượng củi khai thác 4.960 ster, tăng 66,16%. Tính cả quý IV/2020, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 5.821 ha, giảm 18,17% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 1.610 nghìn cây, tăng 0,07%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 1.514 ha, tăng 11,24%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 17.500 ha, giảm 6,26%; sản lượng gỗ khai thác 110.228 m3, giảm 12,66%; sản lượng củi khai thác 24.171 ster, giảm 10,56%. Tính chung năm 2020, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 8.500 ha, giảm 6,84% so với năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 2.500 nghìn cây, tăng 4,17%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 24.000 ha, tăng 8,64%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 3.900 ha, giảm 0,74%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 85.000 ha, tăng 5,87%; sản lượng gỗ khai thác 950.000 m3, giảm 0,11%; sản lượng củi khai thác 235.249 ster, tăng 1,04%.
Thiệt hại rừng: Trong tháng, không có cháy rừng. Tính từ đầu năm đến 15/12/2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ cháy rừng (tại các huyện Triệu Phong, Gio Linh và Vĩnh Linh), giảm 8,33% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị cháy 43,3 ha, giảm 49,67%.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong tháng, đã phát hiện và lập biên bản 03 vụ vi phạm hành chính; xử lý vi phạm hành chính 12 vụ, lâm sản tịch thu 28,7 m3 gỗ các loại. Tính chung từ đầu năm đến nay, đã phát hiện và lập biên bản 210 vụ vi phạm hành chính; xử lý vi phạm hành chính 210 vụ, lâm sản tịch thu 364,7 m3 gỗ các loại, 71,9 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
6.3. Thủy sản
Sản xuất thủy sản năm 2020, đầu năm thời tiết khá thuận lợi, năng lực đánh bắt tăng, giá dầu giảm đã tạo điều kiện cho ngư dân vươn khơi bám biển nên sản lượng đạt khá. Tuy nhiên, những tháng cuối năm bảo, áp thấp nhiệt đới xuất hiện nhiều và dài ngày nên ngư dân không ra khơi đánh bắt được; hơn nữa, lũ lụt đã làm một số diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập, cuốn trôi nên sản lượng thủy sản năm 2020 giảm so với năm trước; nhất là nuôi trồng thủy sản sản lượng giảm mạnh.
Tổng sản lượng thủy sản tháng Mười Hai ước tính đạt 1.432 tấn, giảm 29,02% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 1.017 tấn, giảm 30,77%; tôm 186 tấn, giảm 28,87%; thủy sản khác 229 tấn, giảm 20,21%. Tính cả quý IV/2020, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 4.485,9 tấn, giảm 37,56% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 3.164,5 tấn, giảm 40,35%; tôm 588,1 tấn, giảm 45,97%; thủy sản khác 733,3 tấn, giảm 7,24%. Tính chung năm 2020, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 35.126 tấn, giảm 2,39% so với năm trước; bao gồm: cá 24.713,4 tấn, giảm 6,24%; tôm 4.967 tấn, giảm 7,75%; thủy sản khác 5.445,6 tấn, tăng 28,33%. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Mười Hai ước tính đạt 167 tấn, giảm 66,63% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: tôm 167 tấn, giảm 15,44%. Tính cả quý IV/2020, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 991 tấn, giảm 80,88% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 450,4 tấn, giảm 77,36%; tôm 508,6 tấn, giảm 83,82%. Tính chung năm 2020, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 7.882 tấn, giảm 8,38% so với năm trước; trong đó: cá 3.185 tấn, giảm 10,76%; tôm 4.640 tấn, giảm 6,42%. Nuôi trồng thủy sản tháng 12, quý IV và cả năm 2020 do lũ lụt làm ngập, cuốn trôi một số diện tích nên sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười Hai ước tính đạt 1.265 tấn, giảm 16,61% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1.017 tấn, giảm 12,78%; thủy sản khác 229 tấn, giảm 20,21%. Tính cả quý IV/2020, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.494,9 tấn, giảm 74,88% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.714,1 tấn, giảm 77,70%; thủy sản khác 701,3 tấn, giảm 56,29%. Tính chung năm 2020, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 27.244 tấn, giảm 0,51% so với năm trước; trong đó: cá 21.528,4 tấn, giảm 5,53%; thủy sản khác 5.388,6 tấn, tăng 29,27%. Đánh bắt thủy sản tháng 12, quý IV và cả năm 2020 do ảnh hưởng thời tiết xấu những tháng cuối năm nên sản lượng đánh bắt giảm so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thủy sản
|
Ước quý IV/2020
(Tấn)
|
Ước
năm 2020
(Tấn)
|
So với cùng kỳ năm 2019 (%)
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
Tổng sản lượng thủy sản
|
4.485,9
|
35.126,0
|
62,44
|
97,61
|
* Phân theo loại thủy sản
|
|
|
|
|
- Cá
|
3.164,5
|
24.713,4
|
59,65
|
93,76
|
- Tôm
|
588,1
|
4.967,0
|
54,03
|
92,25
|
- Thủy sản khác
|
733,3
|
5.445,6
|
92,76
|
128,33
|
* Phân theo nuôi trồng, khai thác
|
|
|
|
|
- Nuôi trồng
|
991,0
|
7.882,0
|
19,12
|
91,62
|
- Khai thác
|
3.494,9
|
27.244,0
|
25,12
|
99,49
|
Tình hình dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Từ đầu năm đến 17/11/2020, dịch bệnh trên tôm nuôi đã xảy ra tại 04 xã, phường của 3 huyện, thành phố (Vĩnh Linh, Triệu Phong và TP Đông Hà) với tổng diện tích bị bệnh là 50,68 ha. Bệnh phát sinh chủ yếu là đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp tính, các hộ nuôi đã được cấp hóa chất để xử lý nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.
7. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp năm 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch COVID-19, Quảng Trị là một trong những tỉnh 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch; một số doanh nghiệp khó khăn về nguyên liệu đầu vào và đơn hàng tiêu thụ nên sản xuất giảm sút. Tình hình lũ lụt lớn, kéo dài trên diện rộng trong tháng Mười cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất công nghiệp. Một số doanh nghiệp máy móc, thiết bị bị hư hỏng; hàng hóa sản xuất ra khó tiêu thụ; một số doanh nghiệp bị ướt, hư hỏng nguyên vật liệu đầu vào và hàng hóa sản xuất…Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2020 ước tính chỉ tăng 4,94% so với năm trước (năm 2019 tăng 9,76%). Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành giữ vai trò dẩn dắt ngành công nghiệp phát triển nhưng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19 và lũ lụt nên chỉ số sản xuất chỉ tăng 5,03% (năm 2019 tăng 8,74%).
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 9,26% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 19,56%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,86%; sản xuất và phân phối điện tăng 2,09%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 18,08%. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 9,98%; trong đó: ngành khai khoáng giảm 4,92%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,52%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,91%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 0,66%. Tháng Mười Hai, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khá so với tháng trước và cùng kỳ năm trước do tình hình dịch COVID-19 được kiểm soát, các doanh nghiệp có thêm đơn hàng; thời tiết khá thuận lợi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng thời gian sản xuất…
Tính cả quý IV/2020, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 3,16% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 13,63%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,75%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,61%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,02%.
Tính chung năm 2020, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 4,94% so với năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 2,63%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,03%; sản xuất và phân phối điện tăng 5,91%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,87%.
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất năm 2020 so với năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: dệt tăng 135,56%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 83,67%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,96%; sản xuất trang phục tăng 14,27%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 10,04%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,07%; sản xuất và phân phối điện tăng 5,91%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 4,92%; khai thác quặng kim loại tăng 4,47%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 1,09%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 0,28%; khai khoáng khác tăng 0,05%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: in, sao chép bản ghi các loại giảm 0,49%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 2,24%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 2,45%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 3,18%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 6,35%; sản xuất đồ uống giảm 10,40%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 10,84%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 35,04%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
|
Tháng 12/2020
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
Toàn ngành công nghiệp
|
109,98
|
103,16
|
104,94
|
- Khai khoáng
|
95,08
|
86,37
|
102,63
|
- Công nghiệp chế biến, chế tạo
|
111,52
|
104,75
|
105,03
|
- Sản xuất và phân phối điện
|
111,91
|
104,61
|
105,91
|
- Cung cấp nước, HĐ quản lý và xử lý rác thải, nước thải
|
100,66
|
98,98
|
102,87
|
Một số sản phẩm chủ yếu trong năm 2020 so với năm trước tăng cao: thủy hải sản chế biến 9.059 tấn, tăng 38,20%; tấm lợp proximăng 5.246 nghìn m2, tăng 38,02%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp 3.224 nghìn cái, tăng 18,89%; dăm gỗ 373,61nghìn tấn, tăng 17,09%; comple, quần áo 20.663 nghìn cái, tăng 16,07%...Một số sản phẩm tăng thấp: điện sản xuất 827 triệu Kwh, tăng 8%; nước máy 15.364 nghìn m3, tăng 4,94%; điện thương phẩm 742 triệu Kwh, tăng 4,05%; đá xây dựng 869,06 nghìn m3, tăng 2,66%...Một số sản phẩm giảm: xi măng 261,53 nghìn tấn, giảm 3,03%; gạch xây dựng bằng đất sét nung 141,52 triệu viên, giảm 4,90%; săm dùng cho xe máy, xe đạp 5.052 nghìn cái, giảm 7,34%; phân hóa học 60,41 nghìn tấn, giảm 7,70%; bia lon 11.402 nghìn lít, giảm 7,85%; tinh bột sắn 66,05 nghìn tấn, giảm 8,94%; ván ép 186,11 nghìn m3, giảm 11,34%; nước hoa quả, tăng lực 11.557 nghìn lít, giảm 18,76%; dầu nhựa thông 979 tấn, giảm 25,32%; gạch khối bằng bê tông 44,74 triệu viên, giảm 32,99%; gỗ cưa hoặc xẻ 58,28 nghìn m3, giảm 34,68%...
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2020 giảm 0,14% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0,37% so với cùng thời điểm năm trước. Nguyên nhân số lao động đang làm việc giảm so với cùng thời điểm năm trước là do công tác quản lý khai thác khoáng sản được tăng cường, một số doanh nghiệp khó khăn về nguyên liệu đầu vào và đơn hàng tiêu thụ sản phẩm. Tại thời điểm 01/12/2020 so với cùng thời điểm năm trước số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 22,58%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,46%; sản xuất và phân phối điện giảm 6,63%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,77%. So với cùng thời điểm năm trước, lao động khu vực DN nhà nước tăng 1,20%, DN ngoài nhà nước giảm 13,93%, DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 25,79%.
8. Thương mại và dịch vụ
8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Năm 2020, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng hết sức nặng nề đến hoạt động thương mại và dịch vụ; nhất là hoạt động du lịch, lưu trú và ăn uống. Quảng Trị là một trong những tỉnh 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch, người tiêu dùng hạn chế mua sắm nơi công cộng, đi du lịch và ăn uống ngoài gia đình; hơn nữa, tháng Mười lũ lụt lớn, kéo dài trên diện rộng làm cho một số vùng bị chia cắt, cô lập nên hoạt động thương mại và dịch vụ bị đình trệ. Mặt khác, một bộ phận dân cư mất việc làm hoặc giãn việc, thu nhập giảm sút do ảnh hưởng của dịch COVID-19; một bộ phận khác dân cư bị thiệt hại nặng do lũ lụt…sức mua giảm sút nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2020 chỉ tăng 3,33% so với năm trước (năm 2019 tăng 10,77%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Hai ước tính đạt 2.847,42 tỷ đồng, tăng 4,35% so với tháng trước và tăng 14,62% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa 2.511,31 tỷ đồng, tăng 3,76% và tăng 19,58%; doanh thu lưu trú và ăn uống 237,36 tỷ đồng, tăng 8,44% và giảm 15,27%; doanh thu du lịch lữ hành 0,29 tỷ đồng, tăng 8,68% và giảm 87,65%; doanh thu dịch vụ khác 98,46 tỷ đồng, tăng 10,41% và giảm 3,04%. Tháng Mười Hai tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khá so với tháng trước và cùng kỳ năm trước là do thời tiết chuyển rét và gần Tết Nguyên đán nhu cầu hàng hóa tăng.
Tính cả quý IV/2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 8.115,42 tỷ đồng, tăng 9,16% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa 7.208,82 tỷ đồng, tăng 14,22%; doanh thu lưu trú và ăn uống 650,30 tỷ đồng, giảm 20,47%; doanh thu du lịch lữ hành 0,80 tỷ đồng, giảm 89,94%; doanh thu dịch vụ khác 255,50 tỷ đồng, giảm 14,07%.
Tính chung năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 31.038,78 tỷ đồng, tăng 3,33% so với năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 27.462,87 tỷ đồng, chiếm 88,48% tổng mức và tăng 6,89% so với năm trước (năm 2019 tăng 10,67%). Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng cao hơn chỉ số chung là: gỗ và vật liêu xây dựng tăng 24,97%; ô tô các loại tăng 22,62%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 12,88%; đá quý, kim loại quý tăng 11,53%; lương thực, thực phẩm tăng 11,18%...Các nhóm hàng hóa có tổng mức bán lẻ hàng hóa giảm là: hàng may mặc giảm 4,31%; phương tiện đi lại giảm 8,59%; xăng dầu các loại giảm 11,66%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 2.549,04 tỷ đồng, chiếm 8,21% tổng mức và giảm 18,72% so với năm trước (năm 2019 tăng 11,68%); trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 53,88 tỷ đồng, giảm 39,88%; doanh thu dịch vụ ăn uống 2.495,16 tỷ đồng, giảm 18,10%.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 6,36 tỷ đồng, chiếm 0,02% tổng mức và giảm 81,58% so với năm trước (năm 2019 tăng 11,03%).
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.020,51 tỷ đồng, chiếm 3,29% tổng mức và giảm 13,22% so với năm trước (năm 2019 tăng 10,51%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
|
Ước quý IV/2020
( Tỷ đồng)
|
Ước năm 2020
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tổng mức
(Tỷ đồng)
|
Cơ cấu
(%)
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
Tổng số
|
8.115,42
|
31.038,78
|
100,00
|
109,16
|
103,33
|
- Bán lẻ hàng hóa
|
7.208,82
|
27.462,87
|
88,48
|
114,22
|
106,89
|
- Lưu trú và ăn uống
|
650,30
|
2.549,04
|
8,21
|
79,53
|
81,28
|
- Du lịch lữ hành
|
0,80
|
6,36
|
0,02
|
10,06
|
18,42
|
- Dịch vụ khác
|
255,50
|
1.020,51
|
3,29
|
85,93
|
86,78
|
7.2. Vận tải hành khách và hàng hóa
Năm 2020, dịch COVID-19 và lũ lụt lớn, kéo dài trên diện rộng đã tác động tiêu cực đến hoạt động vận tải; nhất là vận tải hành khách. Tỉnh Quảng Trị 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch nên người dân hạn chế đi lại, hoạt động vận tải hành khách liên tỉnh và nội tỉnh tạm ngừng hoạt động trong thời gian có dịch. Vận tải hành khách chịu ảnh hưởng nặng nề nên số lượt hành khách vận chuyển năm 2020 giảm 9,68% so với năm trước (năm 2019 tăng 3,91%); riêng vận tải hàng hóa, mặc dù cũng chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh các công trình xây dựng trên địa bàn được đẩy nhanh tiến độ thi công để hoàn thành kế hoạch năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020 nên khối lượng hàng hóa vận chuyển năm 2020 tăng 9,52% so với năm trước (năm 2019 tăng 4,22%).
Doanh thu vận tải tháng Mười Hai ước tính đạt 153,28 tỷ đồng, tăng 1,33% so với tháng trước và tăng 8,80% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 26,69 tỷ đồng, tăng 1,78% và giảm 4%; doanh thu vận tải hàng hóa 105,32 tỷ đồng, tăng 1,25% và tăng 13,32%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 21,27 tỷ đồng, tăng 1,16% và tăng 7,4%. Tính cả quý IV/2020 doanh thu vận tải ước tính đạt 448,21 tỷ đồng, tăng 6,56% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 76,07 tỷ đồng, giảm 8,26%; doanh thu vận tải hàng hóa 309,56 tỷ đồng, tăng 11,34%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 62,58 tỷ đồng, tăng 4,83%. Tính chung năm 2020, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.818,70 tỷ đồng, tăng 7,23% so với năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 293,06 tỷ đồng, giảm 12,20%; doanh thu vận tải hàng hóa 1.274,34 tỷ đồng, tăng 12,99%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 251,30 tỷ đồng, tăng 7,20%.
Vận tải hành khách và hàng hóa
|
Ước quý IV/2020
|
Ước
năm 2020
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Quý IV/2020
|
Năm 2020
|
1. Vận tải hành khách
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn HK)
|
2.036,8
|
7.040,5
|
104,94
|
90,32
|
- Luân chuyển (Nghìn HK.Km)
|
176.490,6
|
601.434,2
|
99,16
|
86,54
|
2. Vận tải hàng hóa
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn tấn)
|
2.683,4
|
10.487,3
|
106,46
|
109,52
|
- Luân chuyển (Nghìn tấn.Km)
|
206.127,3
|
764.406,0
|
105,67
|
105,40
|
Số lượt hành khách vận chuyển tháng Mười Hai ước tính đạt 704 nghìn HK, tăng 1,18% so với tháng trước và tăng 9,04% so với cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 61.873 nghìn HK.km, tăng 1,77% và tăng 4,52%. Tính cả quý IV/2020 số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 2.036,8 nghìn HK, tăng 4,94% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 176.490,6 nghìn HK.km, giảm 0,84%. Tính chung năm 2020, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 7.040,5 nghìn HK, giảm 9,68% so với năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 601.434,2 nghìn HK.km, giảm 13,46%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng Mười Hai ước tính đạt 929,8 nghìn tấn, tăng 4,09% so với tháng trước và tăng 12,38% so với cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 70.666,6 nghìn tấn.km, tăng 2,34% và tăng 9,09%. Tính cả quý IV/2020 khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 2.683,4 nghìn tấn, tăng 6,46% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 206.127,3 nghìn tấn.km, tăng 5,67%. Tính chung năm 2020, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 10.487,3 nghìn tấn, tăng 9,52% so với năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 764.406 nghìn tấn.km, tăng 5,40%.
7.3.Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Năm 2020, kinh doanh lưu trú và du lịch lữ hành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ dịch COVID-19. Quảng Trị là một trong những tỉnh 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch nên khách lưu trú và du lịch lữ hành giảm mạnh; nhất là du lịch lữ hành nhiều tháng liền không phát sinh doanh thu. Khi dịch COVID-19 đã được kiểm soát; du lịch Lào, Thái Lan là thế mạnh của Quảng Trị nhưng các nước này vẫn chưa mở cửa đón khách du lịch; hơn nữa, trong điều kiện bình thường mới người dân thay đổi thói quen từ đi du lịch đông người sang du lịch theo nhóm nhỏ, gia đình…nên số lượt khách lưu trú năm 2020 giảm 45,73% so với năm trước (năm 2019 tăng 9,04%), số lượt khách du lịch theo tour giảm 83,03% (năm 2019 tăng 10,69%).
Khách lưu trú và du lịch lữ hành
|
Ước tháng 12/2020
|
Ước
năm 2020
|
So với cùng kỳ năm trước (%)
|
Tháng 12/2020
|
Năm 2020
|
1. Dịch vụ lưu trú
|
|
|
|
|
- Lượt khách (lượt khách)
|
19.858
|
247.996
|
47,13
|
54,27
|
- Ngày khách (ngày khách)
|
15.556
|
198.731
|
41,71
|
46,51
|
2. Dịch vụ du lịch lữ hành
|
|
|
|
|
- Lượt khách (lượt khách)
|
332
|
2.959
|
25,78
|
16,97
|
- Ngày khách (ngày khách)
|
682
|
6.685
|
20,47
|
14,85
|
Số lượt khách lưu trú tháng Mười Hai ước tính đạt 19.858 lượt, tăng 5,03% so với tháng trước và giảm 52,87% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 15.556 ngày khách (chỉ tính khách ngũ qua đêm), tăng 5,36% và giảm 58,29%. Tính chung năm 2020, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 247.996 lượt, giảm 45,73% so với năm trước; số ngày khách lưu trú 198.731 ngày khách (chỉ tính khách ngũ qua đêm), giảm 53,49%.
Số lượt khách du lịch theo tour tháng Mười Hai ước tính đạt 332 lượt, tăng 7,99% so với tháng trước và giảm 74,22% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 682 ngày khách, tăng 8% và giảm 79,53%. Tính chung năm 2020, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 2.959 lượt, giảm 83,03% so với năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 6.685 ngày khách, giảm 85,15%.
7.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 174 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 55 bưu cục cấp 2 và 3, 01 bưu cục hệ 1, có 109/125 xã, phường có điểm bưu điện văn hóa xã, 9 đại lý chuyển phát, 8 thùng thư công cộng độc lập. Có 101/125 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố (trừ huyện đảo Cồn Cỏ) có báo đến trong ngày. Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.441 trạm.
Ước tính đến 31/12/2020, toàn tỉnh có 630.277 thuê bao điện thoại, tăng 3,75% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 9.339 thuê bao cố định, giảm 15,79% và 620.938 thuê bao di động, tăng 4,11%. Ước tính số thuê bao Internet phát triển mới năm 2020 là 11.831 thuê bao, tăng 57,18% so với năm trước; số thuê bao Internet có đến 31/12/2020 là 96.175 thuê bao, tăng 16,84% so với cùng thời điểm năm trước.
II. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Dân số, lao động, việc làm
Dân số trung bình năm 2020 ước tính là 637.265 người, tăng 0,60% so với năm 2019; trong đó: nam 315.952 người, chiếm 49,58%, tăng 0,60%; nữ 321.313 người, chiếm 50,42%, tăng 0,60%; thành thị 199.836 người, chiếm 31,36%, tăng 1,76%; nông thôn 437.429 người, chiếm 68,64%, tăng 0,08%. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được quan tâm, mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản được tăng cường. Ước tính năm 2020, tỷ lệ sinh 15,44%0, giảm 0,31%0 so với năm 2019; tỷ lệ chết 7,31%0, tăng 0,08%0; tỷ lệ tăng tự nhiên dân số 8,13%0, giảm 0,39%0.
Lực lượng lao động toàn tỉnh ước tính đến 31/12/2020 là 350.982 người, chiếm 55,07% dân số và tăng 0,11% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: nam 179.622 người, chiếm 51,18%, tăng 0,06%; nử 171.360 người, chiếm 48,82%, tăng 0,16%. Lực lượng lao động khu vực thành thị 104.532 người, chiếm 29,78%, giảm 0,10%; khu vực nông thôn 246.450 người, chiếm 70,22%, tăng 0,20%.
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính đến 31/12/2020 là 339.680 người, chiếm 96,78% lực lượng lao động của tỉnh và giảm 0,22% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 148.712 người, chiếm 43,78%; khu vực công nghiệp và xây dựng 73.167 người, chiếm 21,54%; khu vực dịch vụ 117.801 người, chiếm 34,68% (cơ cấu tương ứng năm 2019 là: 44,60%, 20,20%, 35,20%). Như vậy, lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ đã chuyển dịch sang khu vực công nghiệp, xây dựng do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa; năm nay khu vực dịch vụ gặp khó khăn do tác động tiêu cực của dịch COVID-19.
Ước tính tỷ lệ thất nghiệp chung toàn tỉnh năm 2020 là 3,2%, tăng 0,3 điểm % so với năm trước. Năm 2020, do tác động tiêu cực của dịch COVID-19 và lũ lụt kéo dài trên diện rộng; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn: thiếu nguyên vật liệu, đơn hàng tiêu thụ sản phẩm, thiệt hại lũ lụt…; một bộ phận người lao động bị mất việc làm hoặc giản việc làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Ước tính năm 2020, tuyển sinh, đào tạo cho 14.000 lao động; trong đó: Cao đẳng 300 người; trung cấp 700 người; sơ cấp và đào tạo thường xuyên 13.000 người (trong đó: đào tạo nghề cho lao động nông thôn 6.500 người).
Đến 31/12/2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo ước tính đạt 65,88%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề 46,5%; lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ 31%.
Ước tính năm 2020, toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho khoảng 10.000 lao động, trong đó: xuất khẩu 1.050. lao động.
Ước tính năm 2020, có 68.719 người tham gia bảo hiểm xã hội, tăng 10.725 người so với cuối năm 2019; trong đó: 54.609 người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 14.110 người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp 48.172 người.
Đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho 3.695 lao động thất nghiệp và đã giải quyết cho 3.595 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền chi trợ cấp hơn 47 tỷ đồng.
2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
2.1. Đời sống dân cư
Bước vào năm 2020, kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều đến cuối năm 2019 trên địa bàn tỉnh có 14.101 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 8,08% và 11.280 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 6,47%.
Ước tính tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm từ 8,08% (14.101 hộ nghèo) đầu năm 2020 xuống còn 6,58% (11.633 hộ nghèo) cuối năm 2020; giảm 1,50% (tương ứng giảm 2.468 hộ nghèo).
Tính đến 30/10/2020, toàn tỉnh có 37.683 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Trong đó: 176 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 24 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 824 người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, hộ nghèo; 14.205 người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên; 1.175 đối tượng đơn thân nuôi nhỏ, hộ nghèo; 17.033 người khuyết tật; 4.055 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT đặc biệt nặng; 24 hộ gia đình, cá nhân nhận kinh phí chăm sóc trẻ em không nơi nương tựa; 06 người nhận kinh phí chăm sóc người cao tuổi; 161 người nhận kinh phí chăm sóc con NKT nặng, đặc biệt nặng.
Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, sau khi sáp nhập có 57 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 56,4%. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở vật chất văn hóa, trường học được đầu tư xây mới, cải tạo đạt chuẩn; chính sách cho vay ưu đãi hộ nghèo, hộ cận nghèo, hổ trợ giống cây trồng, vật nuôi…giúp nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, trong năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và lũ lụt lớn, kéo dài trên diện rộng…một bộ phận người dân bị mất việc làm, giãn việc, thiệt hại do lũ lụt…nên thu nhập bị giảm sút, đời sống gặp khó khăn. Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ và Quyết định số 15/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1943/KH-UBND về thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh…Nhìn chung, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và lũ lụt kéo dài đời sống dân cư nói chung và đặc biệt là đời sống dân cư khu vực nông thôn có khó khăn nhưng nhờ làm tốt công tác an sinh xã hội nên tình hình thiếu đói không xảy ra.
Đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp, theo Nghị định số 90/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động áp dụng từ ngày 01/01/2020 tăng từ 150.000 - 240.000 đồng/tháng, đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động; tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp bị mất việc làm, giãn việc, thu nhập giảm sút nên đời sống có khó khăn. Riêng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang…từ 01/7/2020, không tăng mức lương cơ sở nên có một bộ phận công chức có thu nhập thấp đời sống có khó khăn.
2.2. An sinh xã hội
Ngay từ đầu năm, tỉnh đã xây dựng kế hoạch, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tổ chức vận động nhân dân phát huy truyền thống tương thân, tương ái thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo...
Trong dịp Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020, đã thực hiện chi trả đúng, đủ, kịp thời 31.652 suất quà của Chủ tịch nước với kinh phí 6.445 triệu đồng và 6.872 suất quà ngân sách địa phương với kinh phí 3.047 triệu đồng cho người có công và gia đình chính sách người có công. Sở Lao động, Thương binh và xã hội phối hợp với Ủy ban Mặt trận TQVN tỉnh, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và Hội Chữ thập đỏ tỉnh tổ chức Chương trình “Nối vòng tay nhân ái năm 2020” trong dịp Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020 và đã huy động đóng góp của Chương trình và sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân để trao tặng 55.245 suất quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tổng kinh phí là 32.751 triệu đồng. Tống cộng trong dịp Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020 đã trao tặng 93.770 suất quà với tổng kinh phí 42.243 triệu đồng.
Nhân kỷ niệm 73 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, tỉnh đã trao tặng 25.361 suất quà của Chủ tịch nước với kinh phí 5.155 triệu đồng và 2.210 suất quà ngân suất huyện với kinh phí 601 triệu đồng cho người có công và gia đình chính sách người có công; các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trao 12.463 suất quà với kinh phí 2.089 triệu đồng cho các đối tượng Người có công với cách mạng; xây dựng mới 02 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa 01 nhà tình nghĩa với kinh phí gần 170 triệu đồng; đã trao tặng 12 sổ tiết kiệm trị giá 60 triệu đồng cho các gia đình chính sách, người có công tiêu biểu trong toàn tỉnh.
Tỉnh đã phân bổ 583,86 tấn gạo cứu trợ cho nhân dân vùng dân tộc thiểu số ở 02 huyện miền núi Đakrông và Hướng Hóa trong thời gian giáp hạt năm 2020.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP và Quyết định số 15/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, đã hoàn thành việc phê duyệt danh sách và chi trả hỗ trợ đối với 04 nhóm đối tượng (người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội và người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo) của toàn tỉnh là 142.045 người được hỗ trợ; tổng kinh phí đã hỗ trợ của 4 nhóm là 140.085 triệu đồng. Nhóm đối tượng hộ kinh doanh, người lao động, người sử dụng lao động là 13.684 người được hổ trợ; tổng kinh phí hổ trợ 14.039 triệu đồng.
Phân bổ 3.000 tấn gạo Chính phủ cứu trợ cho nhân dân vùng bị thiên tai, bão lụt. Tổ chức tiếp nhận tiền và vật chất trị giá 126.000 triệu đồng của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước hổ trợ bão lụt cho tỉnh Quảng Trị.
3. Giáo dục và Đào tạo
Năm học 2020-2021, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh tiếp tục tập trung thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT; triển khai Luật Giáo dục (sửa đổi); năm học triển khai chương trình, sách giáo khoa phổ thông mới, áp dụng thực hiện chương trình SGK lớp 1. Chủ đề năm học 2020 - 2021 của ngành GD&ĐT Quảng Trị là: “Nâng cao trách nhiệm, đạo đức, năng lực đổi mới, sáng tạo của nhà giáo; tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh”.
Trong năm 2020, trên địa bàn tỉnh thành lập mới 02 trường học (01 trường liên cấp gồm 3 cấp học và 01 trường mầm non tư thục). Quy mô, mạng lưới trường, lớp học đã được tổ chức, sắp xếp lại từng bước hợp lý, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu học tập của con em trong tỉnh.
Đầu năm học 2020-2021, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 223 trường học, giảm 04 trường so với năm học trước (Tiểu học 67 trường, giảm 02 trường; THCS 43 trường, giảm 02 trường; PTCS 80 trường, giảm 01 trường; THPT 24 trường; TH 6 trường; Phổ thông 02 trường, tăng 01 trường và Liên cấp 01 trường). Số lớp học có 4.467 lớp, giảm 10 lớp so với năm học trước (Tiểu học 2.519 lớp, giảm 30 lớp; THCS 1.286 lớp, tăng 37 lớp; THPT 662 lớp, giảm 17 lớp). Số học sinh phổ thông có 131.745 HS, tăng 2,04% so với năm học trước (Tiểu học 61.494 HS, tăng 1,14%; THCS 45.356 HS, tăng 5,02%; THPT 24.895 HS, giảm 0,92%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 7.621 GV, giảm 2,61% so với năm học trước (Tiểu học 3.527 GV, giảm 3,48%; THCS 2.558 GV, giảm 5,36%; THPT 1.536 GV, tăng 4,63%). Giáo dục mầm non có 167 trường mầm non, giảm 02 trường so với năm học trước. Nhà trẻ có 323 nhóm trẻ, giảm 43 nhóm; có 5.902 cháu, giảm 14,41%; 560 cô nuôi dạy trẻ, giảm 13,18%. Mẫu giáo có 1.339 lớp, tăng 10 lớp; 34.520 HS, giảm 1,73%; 2.298 GV, giảm 3,32%.
Các đơn vị, trường học đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường, thực hiện tốt việc duy trì số lượng, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học. Năm 2020, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học nhà trẻ đạt 30,8%; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo đạt 97%; tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học ở cấp tiểu học đạt 99,87%; cấp trung học cơ sở đạt 95,5%.
Tính đến tháng 7/2020, toàn tỉnh có 571 học sinh bỏ học; đã vận động được 41 học sinh bỏ học trở lại lớp.
Công tác phổ cập giáo dục – xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả tích cực. Kết quả năm 2019, tỉnh Quảng Trị duy trì vững chắc kết quả đạt chuẩn phổ cấp giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đạt mức độ 3, phổ cập giáo dục THCS đạt mức độ 1 và xóa mù chữ đạt mức độ 1; duy trì phổ cấp bậc trung học có 84 xã đạt chuẩn.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đã được ngành Giáo dục và Đào tạo, các địa phương tiếp tục quan tâm. Đến 30/7/2020, toàn tỉnh có 269 trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 67,8%; trong đó: mầm non 102 trường, tiểu học 60 trường, THCS 41, TH&THCS 57 trường và THPT 9 trường.
Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hóa quốc gia lớp 12 THPT tại tỉnh Quảng Trị, kết quả có 30 học sinh đạt giải (6 giải Nhì, 10 giải Ba và 14 giải Khuyến khích), tăng 5 giải so với năm 2019. Tổ chức thành công cuộc thi khoa học kỹ thuật khối học sinh trung học cấp tỉnh; có 02 dự án dự thi Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp Quốc gia đạt giải (01 giải Nhất và 01 giải Tư).
Tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 tại tỉnh (đợt 1): toàn tỉnh có 7.993 thí sinh đăng ký dự thi (7.235 học sinh THPT, 143 học sinh GDNN-GDTX, 615 thí sinh tự do) tại 24 điểm thi với 347 phòng thi; không có cán bộ coi thi và thí sinh vi phạm quy chế thi; tỷ lệ thí sinh đỗ tốt nghiệp đợt 1 (trước phúc khảo, gồm THPT và GDTX) là 94,45%.
4. Y tế
4.1. Tình hình khám, chữa bệnh
Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế được chú trọng đầu tư. Đến nay toàn tỉnh có 162 cơ sở y tế (20 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 cơ sở y tế khác); có 2.025 giường bệnh; không thay đổi so với năm trước.
Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng chuyên môn; có 2.882 cán bộ ngành y, tăng 1,73% so với năm trước (trong đó có 625 bác sĩ trở lên, tăng 0,81%); có 222 cán bộ ngành dược, giảm 3,06% (trong đó có 60 dược sỹ cao cấp trở lên, tăng 13,21%).
Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Tuy nhiên, trong năm 2020 do 2 lần thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch COVID-19 nên số bệnh nhân điều trị nội trú giảm so với năm trước. Năm 2020, ước tính có 812.560 lượt người khám bệnh, tăng 4,95% so với năm trước; 107.250 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, giảm 9,81%; số ngày điều trị nội trú 803.350 ngày, giảm 7,11%. Ước tính đến cuối năm 2020, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95.48%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng dưới 13,3%.
4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Công tác phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh được tiến hành khẩn trương, chủ động và quyết liệt. Tính đến nay, tỉnh Quảng Trị đã ghi nhận 07 trường hợp mắc COVID-19, trong đó có 01 trường hợp tử vong. Từ 14/8/2020 đến nay, tỉnh Quảng Trị không ghi nhận thêm trường hợp nào mắc mới COVID-19. Tỉnh Quảng Trị vừa triển khai các biện pháp phòng chống dịch COVID-19 vừa xử lý cấp bách các ổ dịch sốt xuất huyết và bạch hầu phát sinh…
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh có 720 trường hợp mắc bệnh cúm; 03 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip; 27 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng; 02 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu; 136 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy; 06 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut; 52 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 06 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng…Tính chung năm 2020, trên địa bàn tỉnh có 6.486 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 33,29% so với năm trước; 142 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 32,38%; 421 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 12,84%; 45 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 68,53%; 181 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, giảm 8,59%; 1.305 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 23,95%; 160 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, tăng 48,15%; 07 trường hợp mắc bệnh sốt rét, giảm 91,03%; 897 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 84,38%; 154 trường hợp mắc tay chân miệng, tăng 161,02%; 22 trường hợp mắc bệnh bạch hầu...Nhìn chung, hầu hết các loại bệnh dịch xảy ra trên địa bàn tỉnh đều giảm; chỉ có bệnh tay chân miệng và viêm gan virut tăng mạnh; không có trường hợp tử vong.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh phát sinh 02 trường hợp nhiễm HIV mới. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 251 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ). Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 98 người.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm lớn. Tính chung năm 2020, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 44 người bị ngộ độc; không có trường hợp tử vong.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao
Năm 2020, toàn tỉnh đã thực hiện tốt công tác khánh tiết, tuyên truyền cổ động trực quan; tổ chức tốt các ngày lễ kỷ niệm, lễ hội của quê hương đất nước đảm bảo trang trọng, an toàn, tiết kiệm. Tổ chức thành công Lễ Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao... mừng Xuân Canh Tý 2020; tổ chức Lễ Thượng cờ kết hợp tổ chức lễ dâng hương, dâng hoa tại Thành Cổ Quảng Trị, Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn phù hợp với diễn biến tình hình dịch bệnh COVID-19…
Các địa phương trong tỉnh tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao mừng Đảng, mừng Xuân Canh Tý – 2020 như: Đua thuyền truyền thống, Hội bài chòi, Lễ hội Chợ đình Bích La (Triệu Phong); Hội cù, Hội thi chẻ đá viên, Hội Đu truyền thống, Hội thi Đan troi (Gio Linh); Hội bài chòi, Hội ném cù (Vĩnh Linh); Hội vật cổ truyền, Lễ hội cầu ngư (Hải Lăng)...
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào “TDĐKXDĐSVH” gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị. Đến nay, toàn tỉnh có 92,1% gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu “Gia đình văn hóa”, 98,7% thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương được công nhận và giữ vững danh hiệu văn hóa; 94,1% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 80% xã, phường, thị trấn có Trung tâm VH-TT; 94,9% làng, bản, khu phố có Nhà văn hóa- Khu thể thao; 51,3% xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 37,5% phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.
Chú trọng đưa hoạt động văn hóa, văn nghệ về cơ sở, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới hải đảo. Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh đã tổ chức 368 buổi chiếu phim với gần 104.800 người xem; Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh tổ chức 37 buổi diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, kỷ niệm các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước; thu hút hơn 53.000 lượt người xem.
Thể dục thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Đến nay, tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 35%; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 27%; có 800 câu lạc bộ và điểm tập TDTT; có 83% cán bộ, CNVC tập luyện thường xuyên một môn thể thao; 98,8% trường phổ thông thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục thể chất nội khóa; 99,7% cán bộ, chiến sỹ đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực.
Tổ chức thành công Giải Bóng chuyền nam chào mừng Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam; Giải Bóng đá U11 Cúp QRTV năm 2020; Giải Điền kinh người khuyêt tật, Giải Bóng đá nam vô địch tỉnh Quảng Trị năm 2020-Tranh Cúp Beer Huda...
Thể thao thành tích cao được chú trọng. Các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ duy trì tập luyện và thi đấu thường xuyên theo kế hoạch; một số VĐV được gửi tập huấn tại các Trung tâm Huấn luyện Thể thao trên toàn quốc nhằm chuẩn bị lực lượng tham gia các giải trong năm 2020 và Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ IX năm 2022. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh 100 VĐV (57 VĐV tuyến năng khiếu, 18 VĐV tuyến trẻ, 25 VĐV tuyến tỉnh). Tham gia thi đấu 21 giải thể thao quốc gia đạt 67 huy chương các loại (10 HCV, 28 HCB, 29 HCĐ).
6. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Ban ATGT tỉnh, tháng Mười Hai (từ 15/11 đến 14/12/2020), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông, làm chết 10 người, bị thương 07 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 27,27%, số người chết tăng 42,86%, số người bị thương giảm 22,22%. Tất cả các vụ tai nạn giao thông tháng Mười Hai đều xảy ra trên đường bộ.
Tính chung năm 2020 (Từ 15/12/2019 đến 14/12/2020) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 150 vụ tai nạn giao thông, làm chết 95 người, bị thương 91 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 5,06%, số người chết giảm 19,49%, số người bị thương giảm 19,47%. Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông năm 2020, đường bộ xảy ra 149 vụ, làm chết 94 người, bị thương 91 người; đường sắt xảy ra 01 vụ, làm chết 01 người.
7. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy, nguyên nhân do chập điện; giá trị tài sản thiết hại gần 20 triệu đồng. Tính chung năm 2020, trên địa bàn tỉnh xảy ra 117 vụ cháy, giảm 39,06% so với năm trước; tổng giá trị thiệt hại 6.293,7 triệu đồng, giảm 77,66%; 02 người bị thương.
Trong tháng phát hiện và xử lý 26 vụ vi phạm môi trường, chủ yếu vi phạm về xử lý chất thải; số tiền xử phạt 38,5 triệu đồng. Tính chung năm 2020, phát hiện 188 vụ vi phạm môi trường, giảm 6,93% so với năm trước; xử lý 181 vụ, giảm 2,16%; số tiền xử phạt 596 triệu đồng, giảm 17,53%.
8. Tình hình thiệt hại do thiên tai
Trong năm 2020, tỉnh Quảng Trị chịu ảnh hưởng kết hợp của nhiều hình thể thời tiết nguy hiểm như: không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt đới, các vùng áp thấp trên biển Đông, đới gió Đông hoạt động mạnh, bảo số 6, bảo số 7, bảo số 8, bảo số 9…đã liên tục xảy ra dồn dập các đợt mưa rất lớn, gây ngập lụt trên diện rộng, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, gió mạnh…gây thiệt hại hết sức nghiêm trọng về tính mạng, tài sản, công trình cơ sở hạ tầng và sản xuất trên địa bàn tỉnh; Cụ thể tính từ đầu năm đến 04/11/2020 như sau:
- Thiệt hại về người: 54 người chết, 02 người mất tích, 53 người bị thương;
- Thiệt hại về tài sản ước tính giá trị thiệt hại trên 4.250 tỷ đồng.
III. KẾT LUẬN
Năm 2020, tỉnh Quảng Trị gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội; dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội; cũng là năm bão, lũ lụt gây thiệt hại nặng nề về sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh; hậu quả của dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 còn nặng nề, đến nay tổng đàn lợn vẫn chưa phục hồi…Nhưng được sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy; sự giám sát chặt chẽ của HĐND tỉnh; sự nỗ lực và quyết tâm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh mặc dù không đạt được những kết quả như kỳ vọng, nhưng kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng cao hơn mức tăng của cả nước; thu ngân sách đạt dự toán đề ra; thu hút đầu tư đạt được kết quả khá; sản xuất nông nghiệp được mùa cây lúa; an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả nhất định…