Năm 2020, là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Chủ đề của tỉnh trong năm 2020 là: “Hành động quyết liệt, về đích toàn diện, tạo đà bứt phá”, để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020.
Tỉnh Quảng Trị bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Theo các tổ chức quốc tế và thể chế tài chính, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào suy thoái trong năm 2020. Cùng với đó, chiến tranh thương mại Mỹ - trung vẫn tiếp diễn, căng thẳng chính trị gia tăng giữa Mỹ và Iran, bất đồng nội bộ trong tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ…đã tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định…nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra sớm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; dịch tả lợn Châu Phi chưa được khống chế hoàn toàn.
Tại tỉnh Quảng Trị, dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến hầu hết các ngành và lĩnh vực, nặng nề nhất là ngành du lịch, lưu trú, ăn uống và vận tải…; dịch tả lợn Châu Phi còn phát sinh ở một số địa phương; tình hình thiên tai và dịch bệnh diễn biến phức tạp…Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, Ban ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Chương trình hành động của UBND tỉnh (ban hành kèm theo Quyết định số 146/QĐ-UBND ngày 15/01/2020) về thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ; Kết luận số 320-KL/TU ngày 04/12/2019 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 31/2019/NQ-HĐND ngày 06/12/2019 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020. UBND tỉnh đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gở khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19 và Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về các biện pháp hổ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Với phương châm vừa phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội, nổ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2020 như sau:
I. KINH TẾ
1. Tài chính, ngân hàng
1.1. Tài chính
Tác động tiêu cực của dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; nhất là nguồn thu từ sản xuất, kinh doanh trong 9 tháng năm 2020. Chi ngân sách nhà nước chủ yếu tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế và quản lý nhà nước…
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/9/2020 đạt 2.151,03 tỷ đồng, bằng 63,27% dự toán địa phương năm 2020 và tăng 5,86% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.876,72 tỷ đồng, bằng 63,62% dự toán và tăng 11,19%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 237,35 tỷ đồng, bằng 52,74% dự toán và giảm 28,49%. Trong thu nội địa, một số khoản thu lớn như: thu tiền sử dụng đất 670,52 tỷ đồng, tăng 36,32% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 409,34 tỷ đồng, giảm 13,22%; thuế bảo vệ môi trường 264,96 tỷ đồng, tăng 78,74%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 141,93 tỷ đồng, giảm 20,12%; lệ phí trước bạ 102,72 tỷ đồng, giảm 6,63%...
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/9/2020 đạt 5.878,75 tỷ đồng, bằng 61,85% dự toán địa phương năm 2020 và tăng 15,37% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 602,56 tỷ đồng, bằng 39,80% dự toán và giảm 15,31%; chi thường xuyên 3.436,12 tỷ đồng, bằng 69,61% dự toán và tăng 12,97%. Trong chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.440,83 tỷ đồng, tăng 2,74% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 856,93 tỷ đồng, tăng 8,43%; chi sự nghiệp kinh tế 405,51 tỷ đồng, tăng 22,63%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 387,18 tỷ đồng, tăng 35,31%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 275,46 tỷ đồng, tăng 53,17%...
1.2. Ngân hàng
Trong 9 tháng năm 2020, ngành Ngân hàng triển khai thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, thận trọng phù hợp với các chủ trương của Chính phủ theo Chỉ thị số 01/CT-NHNN. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN Quy định về việc tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hổ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 và Chỉ thị 02/CT-NHNN về các giải pháp cấp bách của ngành Ngân hàng nhằm tăng cường phòng, chống và khắc phục khó khăn do tác động của dịch COVID-19. Sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do tác động tiêu cực của dịch COVID-19 nên tăng trưởng tín dụng của ngành ngân hàng đạt thấp.
Huy động vốn trên địa bàn đến 15/9/2020 đạt 24.408 tỷ đồng, tăng 6,88% (+1.571 tỷ đồng) so với cuối năm 2019 (9 tháng năm 2019 tăng 7,31%); trong đó: tiền gửi tiết kiệm 20.202 tỷ đồng, chiếm 82,77%, tăng 10,62% (+1.939 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 2.436 tỷ đồng, chiếm 9,98%, giảm 6,67% (-174 tỷ đồng); huy động khác 1.187 tỷ đồng, chiếm 4,86%, giảm 15,21% (-213 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 583 tỷ đồng, chiếm 2,39%, tăng 3,37% (+19 tỷ đồng).
Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 15/9/2020 đạt 35.875 tỷ đồng, giảm 0,11% (-41tỷ đồng) so với cuối năm 2019 (9 tháng năm 2019 tăng 8,63%); trong đó: dư nợ cho vay ngắn hạn 15.962 tỷ đồng, chiếm 44,49%, giảm 1,12% (-180 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 19.913 tỷ đồng, chiếm 55,51%, tăng 0,70% (+139 tỷ đồng).
Nợ xấu đến 15/9/2020 là 1.698 tỷ đồng, chiếm 4,73% tổng dư nợ (tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2019 là 2,89%). Nguyên nhân nợ xấu tăng cao chủ yếu một phần do Chương trình cho vay tàu đánh bắt xa bờ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP không thu hồi được, phát sinh nợ xấu; một số doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, thủy điện không trả nợ theo đúng cam kết, chuyển sang nợ xấu.
2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín tăng 0,58% so với tháng trước; nguyên nhân chủ yếu là do thực hiện tăng học phí năm học 2020-2021 theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ; việc hổ trợ giảm giá điện cho khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 kết thúc; giá lương thực tăng do các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có đơn hàng nên tăng cường thu mua lúa, gạo…Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III/2020 tăng 2,66% và 9 tháng năm 2020 tăng 3,71% so với bình quân cùng kỳ năm trước; chủ yếu là do ảnh hưởng dịch tả lợn Châu Phi nguồn cung thịt lợn giảm, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có đơn hàng nên tăng cường thu mua lúa, gạo làm cho giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao; giá dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế điều chỉnh tăng…
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín tăng 0,58% so với tháng trước; giảm 0,22% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III/2020 tăng 2,66% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2020 tăng 3,71% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Trong đó có 3/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: giao thông giảm 9,81%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,91%; bưu chính viễn thông giảm 1,24%. Có 8/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,82%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,06%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,29%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,39%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,91%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,44%; giáo dục tăng 4,91%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 10,37% (lương thực tăng 9,34%, thực phẩm tăng 11,14%, ăn uống ngoài gia đình tăng 9,75%).
Chỉ số giá vàng tháng Chín tăng 0,50% so với tháng trước, tăng 36,41% so với tháng 12 năm trước và tăng 33,58% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý III/2020 tăng 32,88% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 9 tháng năm 2020 tăng 28,57% so với BQ cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Chín ổn đinh so với tháng trước, giảm 0,63% so với tháng 12 năm trước và giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý III/2020 giảm 0,80% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng 2020 giảm 0,45% so với BQ cùng kỳ năm trước.
3. Đầu tư
Chín tháng năm 2020, mặc dù có tác động tiêu cực của dịch COVID-19; với tinh thần: “Hành động quyết liệt, về đích toàn diện, tạo đà bứt phá”, để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020; Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ các công trình/dự án chuyển tiếp từ năm 2019 và khởi công năm 2020; nhất là các công trình/dự án khởi công và hoàn thành “Kỷ niệm 30 năm tái lập tỉnh Quảng Trị”. Bên cạnh đó, kế hoạch vốn đầu tư công của tỉnh năm 2020 được giao tăng 64% so với năm 2019; các cấp, các ngành đã có nhiều nổ lực tập trung tháo gở khó khăn về thủ tục, giải phóng mặt bằng…đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo của Chính phủ nên vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2020 tăng 12,83% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý III/2020 (giá HH) ước đạt 5.454,72 tỷ đồng, tăng 8,97% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 1.579,28 tỷ đồng, tăng 15,40%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 3.857,70 tỷ đồng, tăng 6,30%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 17,74 tỷ đồng, tăng 122,39%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý III/2020, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.051,16 tỷ đồng, tăng 45,40% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn ngân sách tỉnh 844,81 tỷ đồng, tăng 49,64%; vốn ngân sách huyện 186,30 tỷ đồng, tăng 38,30%; vốn ngân sách xã 20,05 tỷ đồng, giảm 15,45%.
Tính chung, vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2020 (giá hiện hành) ước tính đạt 13.254,50 tỷ đồng, tăng 12,83% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 3.759,41 tỷ đồng, tăng 15,04%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 9.419,86 tỷ đồng, tăng 13,83%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 75,23 tỷ đồng, giảm 63,10%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 9 tháng năm 2020, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 2.306,70 tỷ đồng, bằng 58,25% kế hoạch năm 2020 và tăng 39,10% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách tỉnh 1.813,24 tỷ đồng, bằng 54,97% kế hoạch và tăng 49,46%; vốn ngân sách huyện 434,38 tỷ đồng, bằng 75,17% kế hoạch và tăng 12,99%; vốn ngân sách xã 59,08 tỷ đồng, bằng 71,11% kế hoạch và giảm 2,71%.
Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2020, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước tính đạt 9.486,55 tỷ đồng, tăng 11,95% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 1.842,60 tỷ đồng, giảm 5,56%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ đạt 1.741,38 tỷ đồng, tăng 51,07%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 119,18 tỷ đồng, tăng 6,62%; vốn đầu tư phát triển khác đạt 64,79 tỷ đồng, tăng 13,08%.
Đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu kinh tế: Trong 9 tháng năm 2020, có 11 dự án đầu tư được cấp phép với số vốn đăng ký là 5,546 nghìn tỷ đồng. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 229 dự án đầu tư váo các KCN, KKT với tổng vốn đăng ký 332,2 nghìn tỷ đồng; trong đó: 107 dự án đã đi vào hoạt động, 52 dự án đang triển khai xây dựng và 70 dự án đang làm thủ tục đầu tư.
Vốn FDI: Trong 9 tháng năm 2020, không có dự án FDI đăng ký đầu tư mới. Hiện nay có 15 dự án FDI còn hiệu lực, trong đó có 13 dự án FDI đang hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2.442,77 triệu USD.
Về tiến độ giải ngân vốn: Đến 15/9/2020, Kho bạc Nhà nước tỉnh đã giải ngân 1.801,7 tỷ đồng, đạt 42,9% kế hoạch năm 2020; trong đó: nguồn vốn địa phương quản lý 1.649,1 tỷ đồng, đạt 40,9% kế hoạch năm 2020.
4.Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng Chín (Từ 01-15/9), toàn tỉnh có 25 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 625 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 26,32 tỷ đồng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 08 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 04 doanh nghiệp; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 01 doanh nghiệp.
Tính chung từ đầu năm đến 15/9/2020, toàn tỉnh có 396 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 38,95% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 7.124 tỷ đồng, giảm 6,50%; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 17,99 tỷ đồng, giảm 32,70%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 160 doanh nghiệp, tăng 42,86% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 87 doanh nghiệp, giảm 32,03%; số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 90 doanh nghiệp, giảm 12,62%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn, kinh doanh kém hiệu quả…
5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2020 diễn ra trong điều kiện thời tiết, khí hậu biến đổi thất thường; lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 làm cho đàn lợn giảm sâu và chậm phục hồi nên sản lượng thịt hơi xuất chuồng giảm; dịch COVID-19 tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, xuất khẩu lâm, thủy sản…
5.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
a1. Sản xuất cây hàng năm
* Kết quả sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân và Hè Thu
Sản xuất cây hàng năm 9 tháng năm 2020 diễn ra trong điều kiện thời tiết không được thuận lợi: Đầu vụ Đông Xuân mưa lớn đã làm ngập úng một số diện tích lúa phải gieo cấy lại, một số diện tích các loại cây trồng khác không gieo trồng được; cuối vụ ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc gây mưa lớn, gió mạnh làm ngã đổ một số diện tích lúa ảnh hưởng đến năng suất và gây khó khăn cho khâu thu hoạch; vụ Hè Thu hạn hán kéo dài một số cây trồng không gieo trồng được...Tuy nhiên, nhờ làm tốt công tác bố trí lịch thời vụ nhằm né, tránh điều kiện bất lợi của thời tiết; đảm bảo nguồn nước tưới và sử dụng nguồn nước có hiệu quả, tiết kiệm…Kết quả sản xuất cây hàng năm 9 tháng năm 2020, cây lúa cho năng suất và sản lượng đạt khá; còn hầu hết các loại cây trồng khác năng suất và sản lượng đều giảm so với cùng kỳ năm trước.
Về diện tích: Chín tháng năm 2020, toàn tỉnh gieo trồng được 48.684,5 ha lúa (Đông Xuân và Hè Thu), tăng 0,16% so với cùng kỳ năm trước; cơ cấu giống lúa chủ yếu là các loại giống ngắn ngày, cho năng suất và chất lượng cao như: HN6, TL6, AC95, HC95, HT1, Thiên Ưu 8, P6, NA2…; cây ngô gieo trồng 3.727,2 ha, giảm 2,19%; khoai lang 1.756,6 ha, giảm 13,79%; sắn 12.010,7 ha, tăng 2,41%; lạc 3.209,4 ha, giảm 4,05%; rau các loại 5.018,8 ha, tăng 1,65%; đậu các loại 1.585,4 ha, giảm 2,24%...Diện tích ngô, khoai lang, lạc, đậu các loại… giảm là do ảnh hưởng của thời tiết không gieo trồng được.
Về năng suất: Năng suất lúa ước tính đạt 55,2 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước; cây ngô năng suất đạt 34,7 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha; cây khoai lang năng suất đạt 81,3 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha; cây sắn năng suất đạt 67,1 tạ/ha, giảm 1,1 tạ/ha; cây lạc năng suất đạt 20,8 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha; rau các loại năng suất đạt 100,2 tạ/ha, giảm 1,3 tạ/ha; đậu các loại năng suất đạt 10,1 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha…Năng suất hầu hết các loại cây trồng đều giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là do hạn hán kéo dài trong vụ Hè Thu.
Về sản lượng: Chín tháng năm 2020, sản lượng lúa ước tính đạt 268.600,7 tấn, tăng 0,66% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng ngô 12.946,2 tấn, giảm 5,96%; sản lượng khoai lang 14.287,7 tấn, giảm 14,15%; sản lượng sắn 80.554,6 tấn, tăng 0,74%; sản lượng lạc 6.681 tấn, giảm 5,35%; sản lượng rau các loại 50.293,5 tấn, tăng 0,40%; sản lượng đậu các loại 1.598 tấn, tăng 1,52%…Sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm đều giảm là do diện tích và năng suất giảm.
* Tiến độ sản xuất cây hàng năm vụ Mùa năm 2020
Vụ Mùa ở Quảng Trị chủ yếu là gieo lúa nương, rẩy thuộc hai huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông; hiện nay cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Tính đến ngày 15/9/2020, toàn tỉnh đã gieo trồng được 1.951 ha lúa vụ Mùa, tăng 4,38% so với cùng kỳ năm trước.
a2. Cây lâu năm
Sản xuất cây lâu năm của tỉnh gặp khó khăn do giá cà phê, hồ tiêu xuống thấp; giá cao su có tăng nhưng vẫn ở mức thấp chưa hấp dẫn người nông dân đầu tư, thâm canh; cây chuối dể trồng, cho thu nhập khá ổn định đối với người dân miền núi nhưng hiện nay giá bán giảm, khó tiêu thụ; cây dứa cho năng suất khá nhưng khó tiêu thụ nên người dân phá bỏ…
Một số cây lâu năm chủ yếu của tỉnh như: cây cà phê, diện tích hiện có 4.829,7 ha, giảm 1,03% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng cà phê 9 tháng ước tính đạt 409,5 tấn, tăng 0,37%. Cây cao su, diện tích hiện có 19.263 ha, tăng 0,02%; sản lượng cao su mủ khô ước tính đạt 16.545,9 tấn, tăng 10,06%. Cây hồ tiêu, diện tích hiện có 2.530,9 ha, tăng 0,83%; sản lượng hạt tiêu ước tính đạt 2.656 tấn, tăng 0,09%. Cây chuối, diện tích hiện có 4.430 ha, tăng 0,57%; sản lượng chuối ước tính đạt 55.200 tấn, tăng 4,61%. Cây dứa, diện tích hiện có 493,2 ha, tăng 5,38%; sản lượng dứa ước tính đạt 3.615 tấn, giảm 7,83%...
b. Chăn nuôi
Sản xuất chăn nuôi 9 tháng năm 2020 gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 nên đàn lợn đầu năm giảm. Hiện nay, người chăn nuôi đang tái đàn nhưng do giá lợn giống khá cao; hơn nữa, người chăn nuôi chưa mạnh dạn đầu tư do tâm lý lo ngại dịch quay trở lại nên đàn lợn phục hồi chậm. Đàn trâu, bò giảm do diện tích chăn thả bị thu hẹp; phong trào nuôi bò thịt, nhốt chuồng tại Quảng Trị phát triển chưa mạnh. Chăn nuôi gia cầm sau một thời gian phát triển mạnh đến nay do giá bán giảm sút nên đàn gia cầm có xu hướng chững lại.
Ước tính đến 30/9/2020, đàn trâu có 22.398 con, giảm 0,16% so với cùng thời điểm năm 2019; đàn bò có 56.688 con, giảm 0,72%; đàn lợn thịt có 122.674 con, giảm 6,86%; đàn gia cầm có 3.370 nghìn con, tăng 1,72%; trong đó: đàn gà 2.596 nghìn con, tăng 1,11%.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng Chín ước tính đạt 3.192,6 tấn, giảm 14,86% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 1.845 tấn, giảm 26,99%. Tính cả quý III/2020, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 10.210,4 tấn, giảm 9,83% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 5.623 tấn, giảm 25,72%. Tính chung 9 tháng năm 2020, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 28.264,2 tấn, giảm 15,83% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 15.098 tấn, giảm 33,90%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng giảm chủ yếu là do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên sản lượng thịt lợn xuất chuống giảm.
Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến 15/9/2020, dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra ở 203 hộ (87 thôn, 46 xã, 6 huyện, thị); tổng số lợn mắc bệnh chết hoặc buộc tiêu hủy là 1.030 con với tổng trọng lượng 49,2 tấn.
Ngoài ra, có 81 con trâu bò mắc bệnh lở mồm long móng đang được điều trị và 3.200 con gia cầm mắc bệnh cúm H5N6, chết và tiêu hủy 1.850 con.
5.2. Lâm nghiệp
Trong 9 tháng năm 2020, sản xuất lâm nghiệp chủ yếu tập trung chăm sóc rừng, khai thác lâm sản, bảo vệ và phòng chống cháy rừng; riêng tại huyện miền núi Hướng Hóa hiện nay đang là mùa mưa nên các tổ chức và cá nhân tiến hành trồng rừng. Nhìn chung, sản xuất lâm nghiệp phát triển ổn định; dịch COVID-19 có ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, xuất khẩu gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ nhưng không nhiều.
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Chín ước tính đạt 2.428 ha, tăng 27,86% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 75.720 m3, tăng 7,16%; sản lượng củi khai thác 15.660 ster, tăng 0,06%. Tính cả quý III/2020, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 2.679 ha, tăng 33,22% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng trồng được chăm sóc 2.592 ha, tăng 259,50%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 15.000 ha, giảm 53,29%; sản lượng gỗ khai thác 277.072 m3, tăng 5,41%; sản lượng củi khai thác 78.904 ster, tăng 6,42%. Tính chung 9 tháng năm 2020, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 2.679 ha, tăng 33,22% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 695 nghìn cây, giảm 0,4%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 22.092 ha, tăng 13,29%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 2.386 ha, giảm 7,09%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 60.000 ha, giảm 20%; sản lượng gỗ khai thác 839.772 m3, tăng 1,81%; sản lượng củi khai thác 219.326 ster, tăng 1,12%.
Thiệt hại rừng: Từ đầu năm đến 15/9/2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ cháy rừng (tại các huyện Triệu Phong, Gio Linh và Vĩnh Linh), giảm 8,33% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị cháy 43,3 ha, giảm 49,67%.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong tháng, đã phát hiện và lập biên bản 20 vụ vi phạm; xử lý vi phạm hành chính 15 vụ, lâm sản tịch thu 18,96 m3 gỗ các loại. Tính chung từ đầu năm đến nay, đã phát hiện và lập biên bản 175 vụ vi phạm; xử lý vi phạm hành chính 157 vụ, lâm sản tịch thu 256,2 m3 gỗ các loại, 53,3 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
5.3. Thủy sản
Sản xuất thủy sản 9 tháng năm 2020 đạt kết quả khá, nhất là khai thác thủy sản. Năm nay, khai thác thủy sản năng lực đánh bắt tăng; thời tiết khá thuận lợi, giá dầu giảm tạo điều kiện cho ngư dân vươn khơi bám biển; các luồng cá cơm, cá trích, cá nục, khuyếc…xuất hiện nhiều nên sản lượng tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Nuôi trồng thủy sản sản lượng không lớn, phát triển ổn định. Ý thức chấp hành các quy định về khai thác IUU của ngư dân được nâng lên; các chủ tàu chấp hành tốt việc khai báo khi tàu cập cảng và rời cảng theo quy định.
Tổng sản lượng thủy sản tháng Chín ước tính đạt 4.089,9 tấn, tăng 0,20% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 2.573,6 tấn, giảm 3,28%; tôm 1.230,6 tấn, tăng 8,27%; thủy sản khác 285,7 tấn, tăng 0,53%. Tính cả quý III/2020, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 10.980 tấn, giảm 7,85% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 7.774,7 tấn, giảm 12,31%; tôm 2.248,1 tấn, tăng 3,19%; thủy sản khác 957,2 tấn, tăng 9,86%. Tính chung 9 tháng năm 2020, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 30.645 tấn, tăng 6,39% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 21.560,8 tấn, tăng 2,37%; tôm 4.379 tấn, tăng 2,19%; thủy sản khác 4.705,2 tấn, tăng 36,06%. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Chín ước tính đạt 1.693,8 tấn, giảm 0,02% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 477,6 tấn, giảm 16,50%; tôm 1.215 tấn, tăng 8,39%. Tính cả quý III/2020, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 3.319,5 tấn, tăng 2,03% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1.120,2 tấn, tăng 1,87%; tôm 2.196,1 tấn, tăng 2,12%. Tính chung 9 tháng năm 2020, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 6.893 tấn, tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.734,8 tấn, tăng 2,07%; tôm 4.130 tấn, tăng 4,14%. Nhìn chung, nuôi trồng thủy sản ở Quảng Trị còn manh mún, quy mô nhỏ; sản lượng thủy sản nuôi trồng hàng năm không lớn và tương đối ổn định.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Chín ước tính đạt 2.396,1 tấn, tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.096 tấn, tăng 0,34%; thủy sản khác 284,5 tấn, tăng 0,53%. Tính cả quý III/2020, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 7.660,5 tấn, giảm 11,56% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 6.654,5 tấn, giảm 14,31%; thủy sản khác 954 tấn, tăng 9,91%. Tính chung 9 tháng năm 2020, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 23.752 tấn, tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 18.826 tấn, tăng 2,42%; thủy sản khác 4.677 tấn, tăng 36,28%.
Tình hình dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Từ đầu năm đến 10/8, dịch bệnh trên tôm nuôi đã xảy ra tại 2 huyện Vĩnh Linh, Triệu Phong và TP Đông Hà với tổng diện tích bị bệnh là 50,68 ha. Bệnh phát sinh chủ yếu là đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp tính, các hộ nuôi đã được cấp hóa chất để xử lý 19,62 ha nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Từ 10/8 đến nay dịch bệnh không xảy ra.
6. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch COVID-19, đặc biệt trong quý III/2020 Quảng Trị là một trong những tỉnh chịu ảnh hưởng từ làn sóng thứ 2 của dịch COVID-19 nên chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2020 chỉ tăng 5,75% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 9,45%). Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành giữ vai trò dẩn dắt ngành công nghiệp phát triển nhưng 9 tháng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên một số doanh nghiệp khó khăn về nguyên liệu đầu vào và đơn hàng tiêu thụ sản phẩm nên sản xuất giảm sút; chỉ số sản xuất chỉ tăng 5,16% (9 tháng năm 2019 tăng 8,17%). Ngành khai khoáng tăng trưởng khá, nhưng quy mô nhỏ, không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng trưởng chậm lại do các dự án điện gió, điện mặt trời mới đầu tư quy mô nhỏ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng trưởng ổn định.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2020 ước tính tăng 6,94% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 3,44%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,70%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,09%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 7,38%. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2020 ước tính tăng 7,69%; trong đó: ngành khai khoáng giảm 10,93%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,56%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,17%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 4,70%.
Tính cả quý III/2020, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 6,74% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 1,10%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,64%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,56%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,08%.
Tính chung 9 tháng năm 2020, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 5,75% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 9,55%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,16%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,46%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,73%.
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2020 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: dệt tăng 219,20%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 200,15%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 19,28%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 16,53%; khai thác quặng kim loại tăng 14,83%; sản xuất trang phục tăng 13,01%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 11,37%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,46%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 3,40%; khai khoáng khác tăng 2,99%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 2,51%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 2,51%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: in, sao chép bản ghi các loại giảm 0,39%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 2,16%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 6,14%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 6,53%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 10,39%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 11,04%; sản xuất đồ uống giảm 12,08%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 29,32%.
Một số sản phẩm chủ yếu trong 9 tháng năm 2020 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: thủy hải sản chế biến tăng 63,08%; tấm lợp proximăng tăng 31,10%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 22,40%; quần áo tăng 13,67%...Một số sản phẩm tăng thấp: dăm gỗ tăng 8,35%; điện sản xuất tăng 8,08%; xi măng tăng 7,44%; điện thương phẩm tăng 7,35%; đá xây dựng tăng 6,40%; nước máy tăng 2,50%; tinh bột sắn tăng 0,63%... Một số sản phẩm giảm: gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 2,76%; phân hóa học giảm 4,89%; săm dùng cho xe máy, xe đạp giảm 6,76%; nước hoa quả, tăng lực giảm 17,03%; bia lon giảm 18,27%; ván ép giảm 20,03%; gỗ cưa hoặc xẻ giảm 28,01%; gạch khối bằng bê tông giảm 30,83%; dầu nhựa thông giảm 36,36%...
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2020 tăng 0,75% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 15,63% so với cùng thời điểm năm trước. Nguyên nhân số lao động đang làm việc tăng khá cao so với cùng thời điểm năm trước là do năm nay có một số doanh nghiệp thuộc ngành may trang phục, sản xuất giấy…đi vào hoạt động đã thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc. Tại thời điểm 01/9/2020 so với cùng thời điểm năm trước số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 22,68%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 25,47%; sản xuất và phân phối điện tăng 1,20%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,54%. So với cùng thời điểm năm trước, lao động khu vực DN nhà nước tăng 6,54%, DN ngoài nhà nước giảm 5,72%, DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 121,14%.
7. Thương mại và dịch vụ
7.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Chín tháng năm 2020, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng hết sức nặng nề đến hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng; nhất là hoạt động du lịch, lưu trú và ăn uống. Quảng Trị là một trong những tỉnh 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch, người tiêu dùng hạn chế mua sắm nơi công cộng, đi du lịch và ăn uống ngoài gia đình; mặt khác, một bộ phận dân cư mất việc làm hoặc giãn việc, thu nhập giảm sút; mặc dù Chính phủ đã có Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 về các biện pháp hổ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 nhưng sức mua vẫn giảm làm cho tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2020 chỉ tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 10,67%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín ước tính đạt 2.771,91 tỷ đồng, tăng 13,27% so với tháng trước và tăng 8,96% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa 2.505,46 tỷ đồng, tăng 11,52% và tăng 15,09%; doanh thu lưu trú và ăn uống 192,94 tỷ đồng, tăng 44,49% và giảm 27,40%; doanh thu du lịch lữ hành 0,30 tỷ đồng, giảm 89,51% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác 73,21 tỷ đồng, tăng 9,24% và giảm 25,63%. Tháng Chín tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng cao so với tháng trước là do tháng Tám tỉnh Quảng Trị thực hiện giản cách xã hội để phòng chống làn sóng thứ 2 của dịch COVID-19.
Tính cả quý III/2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 8.099,75 tỷ đồng, tăng 5,99% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa 7.214,47 tỷ đồng, tăng 10,20%; doanh thu lưu trú và ăn uống 640,30 tỷ đồng, giảm 19,03%; doanh thu du lịch lữ hành 1,99 tỷ đồng, giảm 78,06%; doanh thu dịch vụ khác 242,99 tỷ đồng, giảm 17,76%.
Tính chung 9 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 23.027,81 tỷ đồng, tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 20.359,33 tỷ đồng, chiếm 88,41% tổng mức và tăng 5,05% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 10,71%). Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng cao hơn chỉ số chung là: gỗ và vật liêu xây dựng tăng 26,83%; ô tô con tăng 26,29%; lương thực, thực phẩm tăng 9,08%; đá quý, kim loại quý tăng 8,17%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 6,56%...Các nhóm hàng hóa có tổng mức bán lẻ hàng hóa giảm là: hàng may mặc giảm 4,03%; phương tiện đi lại giảm 11,93%; xăng dầu các loại giảm 13,75%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 1.899,52 tỷ đồng, chiếm 8,25% tổng mức và giảm 18,07% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 10,23%); trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 38,66 tỷ đồng, giảm 41,27%; doanh thu dịch vụ ăn uống 1.860,86 tỷ đồng, giảm 17,39%.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 5,57 tỷ đồng, chiếm 0,02% tổng mức và giảm 79,09% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 11,45%).
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 763,39 tỷ đồng, chiếm 3,32% tổng mức và giảm 13,11% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 10,79%).
7.2. Vận tải hành khách và hàng hóa
Trong 9 tháng năm 2020, dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến hoạt động vận tải; nhất là vận tải hành khách. Tỉnh Quảng Trị 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch nên giao thương đi lại của dân cư và vận tải hàng hóa giữa các vùng, miền bị hạn chế. Vận tải hành khách chịu ảnh hưởng nặng nề nên số lượt hành khách vận chuyển 9 tháng năm 2020 giảm 15,01% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 3,61%); riêng vận tải hàng hóa, mặc dù cũng chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh các công trình xây dựng trên địa bàn được đẩy nhanh tiến độ thi công nên khối lượng hàng hóa vận chuyển 9 tháng năm 2020 tăng 9,68% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 3,43%).
Doanh thu vận tải tháng Chín ước tính đạt 155,36 tỷ đồng, tăng 20,57% so với tháng trước và tăng 9,43% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 26,04 tỷ đồng, tăng 199,75% và tăng 6,33%; doanh thu vận tải hàng hóa 107,39 tỷ đồng, tăng 9,01% và tăng 10,51%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 21,93 tỷ đồng, tăng 1,27% và tăng 8,04%. Tính cả quý III/2020 doanh thu vận tải ước tính đạt 448,35 tỷ đồng, tăng 6,31% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 64,50 tỷ đồng, giảm 15,83%; doanh thu vận tải hàng hóa 319,55 tỷ đồng, tăng 12,39%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 64,30 tỷ đồng, tăng 6,32%. Tính chung 9 tháng năm 2020, doanh thu vận tải ước tính đạt 1.367,86 tỷ đồng, tăng 7,25% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách 216,68 tỷ đồng, giảm 13,64%; doanh thu vận tải hàng hóa 962,39 tỷ đồng, tăng 13,25%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 188,79 tỷ đồng, tăng 8,05%.
Số lượt hành khách vận chuyển tháng Chín ước tính đạt 646,4 nghìn HK, tăng 129,57% so với tháng trước và tăng 2,83% so với cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 46.084 nghìn HK.km, tăng 146,77% và giảm 16,65%. Tính cả quý III/2020 số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.631,5 nghìn HK, giảm 15,34% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 120.834,2 nghìn HK.km, giảm 28,72%. Tính chung 9 tháng năm 2020, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 4.975,4 nghìn HK, giảm 15,01% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 413.663,5 nghìn HK.km, giảm 19,98%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng Chín ước tính đạt 866,9 nghìn tấn, tăng 3,27% so với tháng trước và tăng 7,93% so với cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 66.666,5 nghìn tấn.km, tăng 3,37% và tăng 8,72%. Tính cả quý III/2020 khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 2.643,1 nghìn tấn, tăng 10,05% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 200.028,3 nghìn tấn.km, tăng 8%. Tính chung 9 tháng năm 2020, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 7.737,2 nghìn tấn, tăng 9,68% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 553.597,4 nghìn tấn.km, tăng 4,42%.
7.3.Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Chín tháng năm 2020, kinh doanh lưu trú và du lịch lữ hành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch COVID-19. Tỉnh Quảng Trị 2 lần thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch nên khách lưu trú và du lịch lữ hành giảm mạnh; nhất là du lịch lữ hành nhiều tháng liền không phát sinh doanh thu. Đến nay, dịch COVID-19 đã được kiểm soát; du lịch Lào, Thái Lan là thế mạnh của Quảng Trị nhưng các nước này vẫn chưa mở cửa đón khách du lịch; hơn nữa, trong điều kiện bình thường mới người dân thay đổi thói quen từ đi du lịch đông người sang du lịch theo nhóm nhỏ, gia đình…nên số lượt khách lưu trú 9 tháng năm 2020 giảm 42,90% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2019 tăng 7,98%), số lượt khách du lịch theo tour giảm 84,71% (9 tháng năm 2019 tăng 9%).
Số lượt khách lưu trú tháng Chín ước tính đạt 21.216 lượt, tăng 159,41% so với tháng trước và giảm 45,64% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 13.843 ngày khách (chỉ tính khách ngũ qua đêm), tăng 176,64% và giảm 62,28%. Tính chung 9 tháng năm 2020, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 191.590 lượt, giảm 42,90% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú 156.875 ngày khách, giảm 50,33%.
Số lượt khách du lịch theo tour tháng Chín ước tính đạt 368 lượt, giảm 75,63% so với cùng kỳ năm trước (tháng trước không phát sinh); số ngày khách du lịch theo tour 688 ngày khách, giảm 82,53%. Tính chung 9 tháng năm 2020, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 2.024 lượt, giảm 84,71% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 4.758 ngày khách, giảm 86,07%.
7.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông
Chín tháng năm 2020, hoạt động bưu chính, viễn thông phát triển ổn định. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 174 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 55 bưu cục cấp 2 và 3, 01 bưu cục hệ 1, có 109 xã, phường có điểm bưu điện văn hóa xã, 9 đại lý chuyển phát, 8 thùng thư công cộng độc lập. Có 94 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố (trừ huyện đảo Cồn Cỏ) có báo đến trong ngày. Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động là 2.427 trạm.
Ước tính đến 30/9/2020, toàn tỉnh có 624.976 thuê bao điện thoại, tăng 1,71% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 9.626 thuê bao cố định, giảm 15,16% và 615.350 thuê bao di động, tăng 2,03%. Số thuê bao Internet hiện có là 92.072 thuê bao, tăng 16,14% so với cùng thời điểm năm trước.
II. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
Quý III/2020, Quảng Trị là một trong những tỉnh chịu ảnh hưởng tiêu cực của làn sóng thứ 2 dịch COVID-19 nên lao động đang làm việc trong nền kinh tế giảm so với cùng kỳ năm trước.
Lực lượng lao động ước tính đến 30/9/2020 là 352.498 người, tăng 0,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số lực lượng lao động: nam 180.039 người, chiếm 51,08%; nử 172.459 người, chiếm 48,92%; khu vực thành thị 105.264 người, chiếm 29,86%; khu vực nông thôn 247.234 người, chiếm 70,14%.
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính đến 30/9/2019 là 340.690 người, chiếm 96,65% lực lượng lao động, giảm 0,48% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 150.312 người, chiếm 44,12%; khu vực công nghiệp và xây dựng 76.042 người, chiếm 22,32%; khu vực dịch vụ 114.336 người, chiếm 33,56%.
Tỷ lệ thất nghiệp chung toàn tỉnh 9 tháng năm 2020 ước tính là 3%, tăng 0,59% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp 9 tháng năm 2020 tăng lên là do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19; tuy nhiên, năm 2020 trên địa bàn tỉnh có một số doanh nghiệp dệt, may…mới đi vào hoạt động đã thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc nên tỷ lệ thất nghiệp tăng thấp.
Trong 9 tháng năm 2020, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 9.812 người; trong đó: Cao đẳng 91 người, Trung cấp 493 người, Sơ cấp và đào tạo thường xuyên 8.228 người. Giải quyết việc làm mới cho 6.880 lao động; trong đó: 3.613 lao động làm việc trong tỉnh, 2.385 lao động làm việc ngoài tỉnh và 882 lao động làm việc ở nước ngoài (xuất khẩu lao động 769 lao động).
Đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho 3.324 lao động thất nghiệp và đã giải quyết cho 3.025 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền chi trợ cấp hơn 39,2 tỷ đồng.
2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
2.1. Đời sống dân cư
Bước vào năm 2020, kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều đến cuối năm 2019 trên địa bàn tỉnh có 14.101 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 8,08% và 11.280 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 6,47%.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 37.683 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Trong đó: 176 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 24 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 824 người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, hộ nghèo; 14.205 người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên; 1.175 đối tượng đơn thân nuôi nhỏ, hộ nghèo; 17.033 người khuyết tật; 4.055 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT đặc biệt nặng; 24 hộ gia đình, cá nhân nhận kinh phí chăm sóc trẻ em không nơi nương tựa; 06 người nhận kinh phí chăm sóc người cao tuổi; 161 người nhận kinh phí chăm sóc con NKT nặng, đặc biệt nặng.
Ngay từ đầu năm, tỉnh đã xây dựng kế hoạch, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tổ chức vận động nhân dân phát huy truyền thống tương thân, tương ái thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo...bảo đảm không để hộ nghèo nào thiếu đói. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, sau khi sáp nhập có 49 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 48,5%. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở vật chất văn hóa, trường học được đầu tư xây mới, cải tạo đạt chuẩn; chính sách cho vay ưu đãi hộ nghèo, hộ cận nghèo, hổ trợ giống cây trồng, vật nuôi…giúp nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 một bộ phận người dân bị mất việc làm, giãn việc…nên thu nhập bị giảm sút, đời sống gặp khó khăn. Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ và Quyết định số 15/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1943/KH-UBND về thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh. Nhìn chung, 9 tháng năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đời sống dân cư nói chung và đặc biệt là đời sống dân cư khu vực nông thôn có khó khăn nhưng nhờ làm tốt công tác an sinh xã hội nên tình hình thiếu đói không xảy ra.
Đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp, theo Nghị định số 90/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động áp dụng từ ngày 01/01/2020 tăng từ 150.000 - 240.000 đồng/tháng, đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động; tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp bị mất việc làm, giãn việc, thu nhập giảm sút nên đời sống có khó khăn. Riêng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang…từ 01/7/2020, không tăng mức lương cơ sở nên có một bộ phận công chức có thu nhập thấp đời sống có khó khăn.
2.2. An sinh xã hội
Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Trong dịp Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020 trên địa bàn tỉnh đã trao tặng 93.770 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác với tổng kinh phí là 42.243 triệu đồng; trong đó, hổ trợ hộ nghèo ăn Tết 14.877 suất quà với tổng kinh phí 7.458 triệu đồng.
Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP và Quyết định số 15/QĐ-TTg về chính sách hổ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh; đã chi trả hổ trợ đối với 4 nhóm đối tượng (người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội và người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo) toàn tỉnh là 139.220 người được hổ trợ; tổng kinh phí đã hổ trợ là 137.711,25 triệu đồng.
Ngoài ra, trong thời gian giáp hạt năm 2020 tỉnh đã phân bổ 583,86 tấn gạo của Chính phủ hổ trợ để cứu trợ cho 7.693 hộ nghèo (38.924 nhân khẩu) vùng dân tộc thiểu số miền núi ở 2 huyện Đakrông và Hướng Hóa.
Nhân kỷ niệm 73 năm ngày Thương binh – Liệt sỹ đã trao tặng 25.361 suất quà của Chủ tịch nước với kinh phí 5.154,6 triệu đồng; 2.210 suất quà ngân sách huyện với kinh phí 601 triệu đồng; các cơ quan, đơn vị, tổ chức cá nhân trao 12.436 suất quà với kinh phí 2.089 triệu đồng cho người có công và gia đình chính sách người có công. Xây dựng mới 02 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa 01 nhà tình nghĩa với kinh phí 170 triệu đồng; đã trao tặng 12 sổ tiết kiệm trị giá 60 triệu đồng cho các gia đình chính sách, người có công tiêu biểu trong toàn tỉnh.
3. Giáo dục và Đào tạo
Năm học 2020-2021, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh tiếp tục tập trung thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT; triển khai Luật Giáo dục (sửa đổi); năm học triển khai chương trình, sách giáo khoa phổ thông mới, áp dụng thực hiện chương trình SGK lớp 1. Chủ đề năm học 2020 - 2021 của ngành GD&ĐT Quảng Trị là: “Nâng cao trách nhiệm, đạo đức, năng lực đổi mới, sáng tạo của nhà giáo; tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh”.
Đầu năm học 2020-2021, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 223 trường học, giảm 04 trường so với năm học trước (Tiểu học 67 trường, giảm 02 trường; THCS 43 trường, giảm 02 trường; PTCS 80 trường, giảm 01 trường; THPT 24 trường; TH 6 trường; Phổ thông 02 trường, tăng 01 trường và Liên cấp 01 trường). Số lớp học có 4.483 lớp, tăng 06 lớp so với năm học trước (Tiểu học 2.549 lớp; THCS 1.252 lớp, tăng 03 lớp; THPT 682 lớp, tăng 03 lớp). Số học sinh phổ thông có 132.823 HS, tăng 2,87% so với năm học trước (Tiểu học 61.494 HS, tăng 1,14%; THCS 45.356 HS, tăng 5,02%; THPT 25.973 HS, tăng 3,37%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 7.845 GV, tăng 0,26% so với năm học trước (Tiểu học 3.654 GV; THCS 2.713 GV, tăng 0,37%; THPT 1.478 GV, tăng 0,68%). Giáo dục mầm non có 166 trường mầm non, giảm 03 trường so với năm học trước. Nhà trẻ có 400 nhóm trẻ, giảm 06 nhóm; có 6.930 cháu, tăng 0,49%; 640 cô nuôi dạy trẻ, giảm 0,78%. Mẫu giáo có 1.315 lớp, giảm 14 lớp; 35.300 HS, tăng 0,49%; 2.370 GV, giảm 0,29%.
Trong 9 tháng năm 2020, trên địa bàn tỉnh thành lập mới 02 trường học (01 trường liên cấp gồm 3 cấp học và 01 trường mầm non tư thục). Quy mô, mạng lưới trường, lớp học đã được tổ chức, sắp xếp lại từng bước hợp lý, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu học tập của con em trong tỉnh.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đã được ngành Giáo dục và Đào tạo, các địa phương tiếp tục quan tâm. Hiện nay, toàn tỉnh có 240/397 trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 60,45%; trong đó: mầm non 102/169 trường, tỷ lệ 60,35%; tiểu học 60/70 trường, tỷ lệ 85,71%; THCS 41/45 trường, tỷ lệ 91,11%; TH&THCS 37/81 trường, tỷ lệ 45,67% và THPT 9/30 trường, tỷ lệ 30%.
Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hóa quốc gia lớp 12 THPT tại tỉnh Quảng Trị. Kết quả có 30 học sinh đạt giải (6 giải Nhì, 10 giải Ba và 14 giải Khuyến khích), tăng 5 giải so với năm 2019. Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học tại Đà Nằng tỉnh Quảng Trị đạt 2 giải (01 giải Nhất và 01 giải Tư).
Tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 tại tỉnh (đợt 1): toàn tỉnh có 7.993 thí sinh đăng ký dự thi tại 24 điểm thi với 347 phòng thi; không có cán bộ coi thi và thí sinh vi phạm quy chế thi; tỷ lệ học sinh đổ tốt nghiệp THPT năm 2020 (trước phúc khảo, gồm THPT và GDTX) đạt 94,45%.
4. Y tế
4.1. Tình hình khám, chữa bệnh
Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế được chú trọng đầu tư. Đến nay toàn tỉnh có 162 cơ sở y tế, không thay đổi so với cùng kỳ năm trước (20 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 cơ sở y tế khác); có 2.025 giường bệnh.
Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng chuyên môn; có 2.884 cán bộ ngành y, tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước (trong đó có 625 bác sĩ trở lên, tăng 1,13%); có 222 cán bộ ngành dược, tăng 3,26% (trong đó có 60 dược sỹ cao cấp trở lên, tăng 9,09%).
Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Tuy nhiên, trong 9 tháng năm 2020 do thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch COVID-19 nên số lượt người khám bệnh và số bệnh nhân điều trị nội trú đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Chín tháng năm 2020, ước tính có 508.228 lượt người khám bệnh, giảm 12,47% so với cùng kỳ năm trước; 77.360 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, giảm 22,01%; số ngày điều trị nội trú 627.880 ngày, giảm 14,03%.
4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Công tác phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh được tiến hành khẩn trương, chủ động và quyết liệt. Tính đến nay tỉnh Quảng Trị đã ghi nhận 07 ca mắc bệnh COVID-19, trong đó có 01 ca tử vong, 04 ca được điều trị khỏi bệnh và đã xuất viện. Tỉnh Quảng Trị vừa triển khai các biện pháp phòng chống dịch COVID-19 vừa xử lý cấp bách các ổ dịch bạch hầu phát sinh; đến thời điểm này, toàn tỉnh đã có 22 trường hợp mắc bệnh bạch hầu; chưa có trường hợp nào tử vong.
Ngoài ra, trong tháng trên địa bàn tỉnh có 521 trường hợp mắc bệnh cúm; 11 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip; 81 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng; 06 trường hợp mắc bệnh quai bị; 06 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu; 103 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy; 21 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut; 43 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 08 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng...Tính chung 9 tháng năm 2020, trên địa bàn tỉnh có 4.843 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 24,41% so với cùng kỳ năm trước; 116 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 19,44%; 325 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 10,96%; 43 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 63,87%; 174 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu; 934 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 27,93%; 137 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, tăng 39,8%; 04 trường hợp mắc bệnh sốt rét, giảm 93,55%; 688 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 69,11%; 121 trường hợp mắc tay chân miệng, tăng 332,14%...Nhìn chung, hầu hết các loại bệnh dịch xảy ra trên địa bàn tỉnh đều giảm; không có trường hợp tử vong.
Trong tháng, phát sinh 02 trường hợp nhiễm HIV mới. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 248 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ). Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 98 người.
Trong tháng Chín và 9 tháng năm 2020, trên địa bàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm lớn nào xảy ra; chỉ xảy ra một số vụ ngộ độc thức ăn nhẹ đã được kịp thời cứu chữa.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao
Trong 9 tháng năm 2020, toàn tỉnh đã thực hiện tốt công tác khánh tiết, tuyên truyền cổ động trực quan; tổ chức tốt các ngày lễ kỷ niệm, lễ hội của quê hương đất nước đảm bảo trang trọng, an toàn, tiết kiệm. Tổ chức thành công Lễ Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao... mừng Xuân Canh Tý 2020; tổ chức Lễ Thượng cờ kết hợp tổ chức lễ dâng hương, dâng hoa tại Thành Cổ Quảng Trị, Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn phù hợp với diễn biến tình hình dịch bệnh COVID-19.
Các địa phương trong tỉnh tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao mừng Đảng, mừng Xuân Canh Tý – 2020 như: Đua thuyền truyền thống, Hội bài chòi, Lễ hội Chợ đình Bích La (Triệu Phong); Hội cù, Hội thi chẻ đá viên, Hội Đu truyền thống, Hội thi Đan troi (Gio Linh); Hội bài chòi, Hội ném cù (Vĩnh Linh); Hội vật cổ truyền, Lễ hội cầu ngư (Hải Lăng)...
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào “TDĐKXDĐSVH” gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị. Đến ngày 15/9/2020, toàn tỉnh có 92,1% gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu “Gia đình văn hóa”, 98,7% thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương được công nhận và giữ vững danh hiệu văn hóa; 94,1% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 80% xã, phường, thị trấn có Trung tâm VH-TT; 94,9% làng, bản, khu phố có Nhà văn hóa- Khu thể thao; 51,3% xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 37,5% phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.
Chú trọng đưa hoạt động văn hóa, văn nghệ về cơ sở, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới hải đảo. Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh đã tổ chức 162 buổi chiếu phim với gần 45.300 người xem; Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh tổ chức 36 buổi diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, kỷ niệm các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước; thu hút hơn 52.000 lượt người xem.
Thể dục thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Đến nay, tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 34%; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 26,6%; có 788 câu lạc bộ và điểm tập TDTT, có 03 liên đoàn và hiệp hội.
Tổ chức thành công Giải Bóng chuyền nam chào mừng Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam; Giải Bóng đá U11 Cúp QRTV năm 2020; Giải Điền kinh người khuyêt tật, Giải Bóng đá nam vô địch tỉnh Quảng Trị năm 2020-Tranh Cúp Beer Huda...
Thể thao thành tích cao được chú trọng. Các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ duy trì tập luyện và thi đấu thường xuyên theo kế hoạch; một số VĐV được gửi tập huấn tại các Trung tâm Huấn luyện Thể thao trên toàn quốc nhằm chuẩn bị lực lượng tham gia các giải trong năm 2020 và Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ IX năm 2022. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh 100 VĐV (57 VĐV tuyến năng khiếu, 18 VĐV tuyến trẻ, 25 VĐV tuyến tỉnh). Tham gia thi đấu 07 giải thể thao quốc gia đạt 35 huy chương các loại (3 HCV, 15 HCB, 17 HCĐ).
6. Tai nạn giao thông
Theo Báo cáo của Ban ATGT tỉnh, trong tháng Chín (Từ 15/8 đến 14/9/2020), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông, làm chết 05 người, bị thương 05 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông giảm 33,33%, số người chết giảm 28,57%, số người bị thương giảm 58,33%. Tất cả các vụ tai nạn giao thông tháng Chín đều xảy ra trên đường bộ.
Tính chung 9 tháng năm 2020 (Từ 15/12/2019 đến 14/9/2020) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 103 vụ tai nạn giao thông, làm chết 63 người, bị thương 67 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 8,04%, số người chết giảm 24,10%, số người bị thương giảm 12,99%. Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông 9 tháng năm 2020, đường bộ xảy ra 102 vụ, làm chết 62 người và bị thương 67 người; đường sắt xảy ra 01 vụ làm chết 01 người.
7. Tình hình thiên tai, cháy nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng Chín, bảo số 5 đã ảnh hưởng đến tỉnh Quảng Trị làm 01 người chết, 06 người bị thương, 02 nhà bị sập, 796 nhà bị hư hại, 8,5 ha lúa và 51 ha hoa màu bị thiệt hại; tổng giá trị thiệt hại ước tính 3.180 triệu đồng. Tính chung 9 tháng năm 2020, áp thấp nhiệt đới, lốc xoáy và bảo số 5 đã làm 01 người chết, 06 người bị thương; 05 nhà bị sập, 977 nhà bị hư hại, 1.338,2 ha lúa và 68 ha hoa màu bị thiệt hại; tổng giá trị thiệt hại ước tính 141.047 triệu đồng.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 11 vụ cháy; ước tính giá trị thiệt hại 568 triệu đồng; không có thiệt hại về người. Tính chung, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 101 vụ cháy, giảm 42,61% so với cùng kỳ năm trước; tổng giá trị thiệt hại 5.496,7 triệu đồng, giảm 58,88%; 01 người bị thương, giảm 50%.
Trong tháng, phát hiện và xử lý 16 vụ vi phạm môi trường; số tiền xử phạt 146 triệu đồng; nguyên nhân do vi phạm về xử lý chất thải và khai thác khoáng sản trái phép. Tính chung, từ đầu năm đến nay phát hiện 102 vụ vi phạm môi trường, giảm 37,80% so với cùng kỳ năm trước; xử lý 95 vụ, giảm 37,09%; số tiền xử phạt 379,5 triệu đồng, giảm 39,46%.
► Số liệu KT-XH tháng 9 và 9 tháng năm 2020
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ