Kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị 9 tháng năm 2018 diễn ra trong bối cảnh bên cạnh những thời cơ và thuận lợi mới, vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục cải thiện nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Giá các mặt hàng thiết yếu như: xăng dầu, sắt thép…tăng cao; căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc và các đối tác lớn khác như: Liên minh Châu Âu, Nhật Bản; xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của các nước lớn, đặc biệt là những thay đổi trong chính sách thương mại của Mỹ…
Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tích cực đạt được trong năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018, kinh tế nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: sức ép lạm phát tăng lên; số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động kinh doanh tăng; thuế nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam vào Mỹ tăng cao; ngành công nghiệp chế biến chế tạo có xu hướng tăng chậm lại; diễn biến của thời tiết, dịch bệnh, tình trạng cháy nổ và tai nạn giao thông còn phức tạp…
Tại Quảng Trị, trong 9 tháng qua giá một số nông sản chủ lực của tỉnh như: cao su, cà phê, hồ tiêu…xuống thấp, làm cho một bộ phận nông dân gặp khó khăn; giá bán thịt lợn hơi đã tăng trở lại ở mức cao nhưng người chăn nuôi vẫn còn thận trọng chưa đầu tư nên tổng đàn giảm sút; ngành công nghiệp chế biến chế tạo, số dự án hoàn thành đi vào hoạt động không nhiều nên tốc độ tăng trưởng chậm lại; thu ngân sách trên địa bàn và thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; môi trương kinh doanh tuy có cải thiện, nhưng số doanh nghiệp thành lập mới chưa nhiều; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên gặp nhiều rủi ro trong cuộc cạnh tranh hiện nay…
Trong tình hình đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành, các địa phương quyết liệt thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Chương trình hành động số 111/CTHĐ-UBND ngày 22/01/2018 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 của Chính phủ, Kết luận số 78-KL/TU ngày 05/12/2017 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 19/2017/NQ-HĐND ngày 14/12/2017 của Hội đồng Nhân dân tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018; đồng thời thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện trong từng tháng, từng quý. Nhờ vậy, tình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Kết quả cụ thể các ngành và lĩnh vực trong 9 tháng năm 2018 đạt được như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
1.1. Tài chính
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về thực hiện chính sách tài khoá chặt chẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách; tỉnh đã thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách, kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa cần thiết…Tích cực tìm các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, nuôi dưỡng và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Đẩy mạnh công tác thu, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định; hạn chế tình trạng nợ đọng thuế.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/9/2018 đạt 1.707,58 tỷ đồng, bằng 65,75% dự toán địa phương và tăng 12,20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.490,82 tỷ đồng, bằng 64,96% dự toán và tăng 11,87%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 201,73 tỷ đồng, bằng 66,80% dự toán và tăng 6,64%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: thu từ doanh nghiệp nhà nước 172,66 tỷ đồng, tăng 14,84% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 443,16 tỷ đồng, tăng 17,11%; lệ phí trước bạ 90,05 tỷ đồng, tăng 50,71%; thuế thu nhập cá nhân 52,15 đồng, tăng 17,80%; thuế bảo vệ môi trường 117,85 tỷ đồng, giảm 39,59%; thu tiền sử dụng đất 401,57 tỷ đồng, tăng 19,31%...
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/9/2018 đạt 4.543,25 tỷ đồng, bằng 59,81% dự toán địa phương và tăng 20,88% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.422,72 tỷ đồng, bằng 169,61% dự toán và tăng 52,38%; chi thường xuyên 3.082,38 tỷ đồng, bằng 69,33% dự toán và tăng 10,61%. Trong tổng chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.302,36 tỷ đồng, tăng 8,34% so với cùng kỳ năm trước; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 292,79 tỷ đồng, tăng 31,71%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 164,80 tỷ đồng, tăng 0,39%; chi sự nghiệp kinh tế 275,05 tỷ đồng, tăng 20,43%; chi quản lý hành chính 750,01 tỷ đồng, tăng 3,55%...
Thu, chi ngân sách nhà nước
|
Thực hiện đến 18/9/2018
( Tỷ đồng)
|
Thực hiện đến 18/9/2018 so với dự toán
năm 2018 (%)
|
Thực hiện đến 18/9/2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
1. Tổng thu NSNN trên địa bàn
|
1.707,58
|
65,75
|
112,20
|
TĐ: - Thu nội địa
|
1.490,82
|
64,96
|
111,87
|
- Thu từ hoạt động XNK
|
201,73
|
66,80
|
106,64
|
2. Tổng chi NSNN địa phương
|
4.543,25
|
59,81
|
120,88
|
TĐ: - Chi đầu tư phát triển
|
1.422,72
|
169,61
|
152,38
|
- Chi thường xuyên
|
3.082,38
|
69,33
|
110,61
|
1.2. Ngân hàng
Các tổ chức tín dụng đã triển khai thực hiện nghiêm túc các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động Ngân hàng của Chính phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện nhiệm vụ Ngân hàng năm 2018.
Lãi suất cho vay trên địa bàn Quảng Trị trong 9 tháng năm 2018 cơ bản ổn định; hoạt động ngoại hối, vàng diễn biến bình thường.
Huy động vốn trên địa bàn đến 10/9/2018 đạt 19.346 tỷ đồng, tăng 7,56% (+1.359 tỷ đồng) so với cuối năm 2017; tăng 13,95% (+2.368 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Tiền gửi tiết kiệm 14.533 tỷ đồng, chiếm 75,12%, tăng 6,10% (+835 tỷ đồng) so với cuối năm 2017; tiền gửi thanh toán 2.432 tỷ đồng, chiếm 12,57%, giảm 5,66% (-146 tỷ đồng); huy động khác 1.988 tỷ đồng, chiếm 10,28%, tăng 37,88% (+126 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 401 tỷ đồng, chiếm 2,03%, tăng 45,78% (+126 tỷ đồng).
Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 10/9/2018 đạt 30.162 tỷ đồng, tăng 15,10% (+3.958 tỷ đồng) so với cuối năm 2017; tăng 23,19% (+5.677 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Dư nợ cho vay ngắn hạn 12.894 tỷ đồng, chiếm 42,75%, tăng 18,93% (+2.052 tỷ đồng) so với cuối năm 2017; dư nợ cho vay trung và dài hạn 17.268 tỷ đồng, chiếm 57,25%, tăng 123,41% (+1.906 tỷ đồng).
Nợ xấu đến 10/9/2018 trên địa bàn là 215 tỷ đồng, chiếm 0,71% tổng dư nợ.
1.3. Bảo hiểm
Tổng thu bảo hiểm xã hội đến 15/9/2018 đạt 427 tỷ đồng, bằng 63,54% kế hoạch và tăng 4,40% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi bảo hiểm xã hội đạt 591 tỷ đồng, bằng 66,11% kế hoạch và tăng 17,96% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu bảo hiểm y tế đến 15/9/2018 đạt 313 tỷ đồng, bằng 61,13% kế hoạch và tăng 29,88% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi bảo hiểm y tế đạt 400 tỷ đồng, bằng 63,09% kế hoạch và tăng 6,38% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu bảo hiểm thất nghiệp đến 15/9/2018 đạt 28 tỷ đồng, bằng 63,64% kế hoạch và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi bảo hiểm thất nghiệp đạt 20 tỷ đồng, bằng 95,24% kế hoạch và tăng 42,86% so với cùng kỳ năm trước.
2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2018 tăng thấp hơn mức tăng 9 tháng năm 2017. Giá một số nhóm hàng tăng làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng như: nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao (do giá dịch vụ khám chữa bệnh cho đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế tăng); nhóm dịch vụ giáo dục tăng khá cao (do học phí tăng từ đầu năm học 2017-2018); nhóm dịch vụ giao thông tăng (do giá xăng dầu điều chỉnh tăng); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng (do giá vật liệu xây dựng tăng)…Tuy nhiên, vẫn có một số nhóm hàng giảm đã làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng chậm lại như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đồ uống và thuốc lá; bưu chính viễn thông; văn hóa, giải trí và du lịch…
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2018 tăng 0,46% so với tháng trước, tăng 1,76% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,29% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng quý III/2018 tăng 0,36% so với quý II/2018 và tăng 3,06% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2018, tăng 2,40% so với bình quân cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2017 tăng 5,08%). Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,77% (lương thực tăng 1,75%, thực phẩm giảm 3,28%, ăn uống ngoài gia đình tăng 2,72%); đồ uống và thuốc lá giảm 0,04%; bưu chính viễn thông giảm 0,94%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,41%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,36%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,33%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,72%; giao thông tăng 6%; giáo dục tăng 20,68%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,03%.
Chỉ số giá vàng tháng 9/2018 giảm 1,12% so với tháng trước; giảm 2% so với tháng 12 năm trước và giảm 3,92% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng quý III/2018 giảm 4,33% so với quý II/2018 và giảm 0,06% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 9 tháng năm 2018 tăng 4,20% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2018 tăng 0,12% so với tháng trước; tăng 2,55% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,50% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ quý III/2018 tăng 1,73% so với quý II/2018 và tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng năm 2018 tăng 0,81% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
3. Đầu tư và xây dựng
3.1. Đầu tư
Tình hình đầu tư trên địa bàn tỉnh tuy còn nhiều khó khăn do tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ của Chính phủ; nguồn vốn ngân sách tỉnh hạn hẹp, năng lực của doanh nghiệp và hộ dân cư còn hạn chế; tình hình thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước gặp khó khăn…nhưng các cấp, các ngành đã có nhiều nổ lực thu hút vốn đầu tư, khai thác có hiệu quả các nguồn vốn, xã hội hóa trong đầu tư…đặc biệt năm nay, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước tỉnh quản lý tăng gần 56% so với năm 2017 nên vốn đầu tư phát triển thực hiện trong 9 tháng năm 2018 tăng khá.
Vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn quý III/2018 (giá hiện hành) ước tính đạt 3.710,28 tỷ đồng, tăng 10,39% so với cùng kỳ năm trước; Trong đó: Vốn nhà nước đạt 1.152,22 tỷ đồng, tăng 11,87%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 2.534,49 tỷ đồng, tăng 9,79%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 23,57 tỷ đồng, tăng 3,16%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước quý III/2018, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 843,29 tỷ đồng, tăng 69,75% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 698,73 tỷ đồng, tăng 61,94%; vốn ngân sách huyện đạt 120,67 tỷ đồng, tăng 140,65%; vốn ngân sách xã đạt 23,90 tỷ đồng, tăng 57,56%.
Vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2018 (giá hiện hành) ước tính đạt 9.637,88 tỷ đồng, tăng 10,64% so với cùng kỳ năm trước; Trong đó: Vốn nhà nước đạt 2.729,50 tỷ đồng, chiếm 28,32% và tăng 14,51%; vốn của dân cư và tư nhân đạt 6.846,35 tỷ đồng, chiếm 71,04% và tăng 9,32%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 62,03 tỷ đồng, chiếm 0,64% và giảm 3,89%.
Trong vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn 9 tháng năm 2018, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 7.090,32 tỷ đồng, tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản đạt 1.302,03 tỷ đồng, tăng 9,18%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ đạt 817,17 tỷ đồng, tăng 35,12%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động đạt 372,19 tỷ đồng, tăng 2,07%; vốn đầu tư phát triển khác đạt 56,17 tỷ đồng, giảm 64,53%.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước 9 tháng năm 2018, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.858,11 tỷ đồng, bằng 77,17% kế hoạch năm 2018 và tăng 51,51% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 1.527,58 tỷ đồng, bằng 77,30% kế hoạch và tăng 45,89%; vốn ngân sách huyện đạt 273,36 tỷ đồng, bằng 76,39% kế hoạch và tăng 97,38%; vốn ngân sách xã đạt 57,17 tỷ đồng, bằng 77,26% kế hoạch và tăng 39,97%. Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng tăng khá cao là do kế hoạch phân bổ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước tỉnh quản lý tăng gần 56% so với năm 2017.
Vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn
|
Ước thực hiện quý III/2018
( Tỷ đồng)
|
Ước thực hiện 9 tháng
năm 2018 (Tỷ đồng)
|
Ước thực hiện quý III/2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
Ước thực hiện 9 tháng 2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
Tổng số
|
3.710,28
|
9.637,88
|
110,39
|
110,64
|
- Vốn khu vực nhà nước
|
1.152,22
|
2.729,50
|
111,87
|
114,51
|
- Vốn của dân cư và tư nhân
|
2.534,49
|
6.846,35
|
109,79
|
109,32
|
- Vốn đầu tư trực tiếp NN
|
23,57
|
62,03
|
103,16
|
96,11
|
Vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu kinh tế: Trong 9 tháng năm 2018 Tỉnh đã cấp chủ trương đầu tư cho 9 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 800,86 tỷ đồng, trong đó có một số dự án lớn như: Trường liên cấp hội nhập quốc tế Ischool Quảng Trị, Khu đô thị sinh thái biển AE resort - Cửa Tùng, Trung tâm thương mại miền Trung…Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 160 dự án đầu tư váo các KCN, KKT với tổng vốn đăng ký 101,35 nghìn tỷ đồng; trong đó: 89 dự án đã đi vào hoạt động với số vốn đăng ký 8,08 nghìn tỷ đồng, 54 dự án đang triển khai xây dựng với số vốn đăng ký 14,29 nghìn tỷ đồng và 17 dự án đang làm thủ tục đầu tư với số vốn đăng ký 78,98 nghìn tỷ đồng.
Vốn FDI: Chín tháng năm 2018 không có dự án FDI đăng ký đầu tư mới. Hiện nay có 14 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 44,65 triệu USD. Vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI trong 9 tháng năm 2018 ước tính đạt 2,74 triệu USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2017.
Vốn ODA: Từ đầu năm đến nay không có dự án ODA nào được ký hiệp định vay với nhà tài trợ. Hiện nay trên địa bàn có 22 dự án ODA đang thực hiện được bố trí vốn là 1.211,57 tỷ đồng (vốn nước ngoài 1.043,31 tỷ đồng, vốn đối ứng 168,26 tỷ đồng). Dự ước giải ngân vốn ODA 9 tháng năm 2018 thực hiện 698,37 tỷ đồng, đạt 78,87% kế hoạch năm 2018.
Vốn NGO: Trong 9 tháng năm 2018, đã vận động, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, tiếp nhận 18 chương trình, dự án, khoản viện trợ NGO với tổng giá trị vốn cam kết là 3,93 triệu USD. Ước tính vốn thực hiện các dự án trong 9 tháng đạt 0,81 triệu USD, bằng 29,64% kế hoạch.
Về tiến độ giải ngân vốn: đến 31/8/2018, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 1.514,64 tỷ đồng, đạt 33,91% kế hoạch năm 2018. Trong đó, nguồn vốn địa phương quản lý thực hiện 1.237,13 tỷ đồng, đạt 31,74% kế hoạch, vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thực hiện 150,32 tỷ đồng, đạt 19,95% kế hoạch…
3.2. Xây dựng
Ngành xây dựng 9 tháng năm 2018 gặp một số khó khăn, do thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ của Chính phủ; các dự án hạ tầng kỷ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư; thị trường bất động sản đã hình thành nhưng chưa rỏ nét…Mặc dù, các cấp, các ngành đã kịp thời xử lý những vướng mắc phát sinh đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình/dự án sớm hoàn thành đưa vào sử dụng; chính sách cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín dụng đối với hộ dân cư xây dựng nhà ở thông thoáng hơn …nhưng giá trị sản xuất xây dựng vẫn tăng chậm hơn so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất xây dựng quý III/2018 (giá so sánh 2010) ước tính đạt 1.928,20 tỷ đồng, tăng 5,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 981,51 tỷ đồng, tăng 20,06%; giá trị sản xuất xây dựng nhà không để ở đạt 170,30 tỷ đồng, giảm 46,94%; giá trị sản xuất xây dựng công trình kỷ thuật dân dụng đạt 750,45 tỷ đồng, tăng 28,90%; giá trị sản xuất xây dựng công trình chuyên dụng đạt 25,94 tỷ đồng, giảm 75,79%.
Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2018 (giá hiện hành) ước tính đạt 7.264,13 tỷ đồng, chủ yếu do các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 3.640,67 tỷ đồng, chiếm 50,12%; công trình nhà không để ở đạt 613,25 tỷ đồng, chiếm 8,44%; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 2.876,45 tỷ đồng, chiếm 39,60%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 133,76 tỷ đồng, chiếm 1,84%.
Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2018 (giá so sánh 2010) ước tính đạt 5.006,68 tỷ đồng, tăng 6,86% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2017 tăng 7,41%). Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 2.507,34 tỷ đồng, tăng 16,30%; giá trị sản xuất xây dựng nhà không để ở đạt 422,36 tỷ đồng, giảm 30,66%; giá trị sản xuất xây dựng công trình kỷ thuật dân dụng đạt 1.981,37 tỷ đồng, tăng 11,80%; giá trị sản xuất xây dựng công trình chuyên dụng đạt 95,60 tỷ đồng, giảm 35,48%.
Tiến độ thi công một số công trình/dự án có vốn lớn: Công viên Fidel Castro thực hiện 9 tháng 40,71 tỷ đồng, tính chung đã thực hiện 114,78 tỷ đồng, đạt 83,19% vốn dự án. CSHT khu vực Bắc sông Hiếu thực hiện 9 tháng 19,35 tỷ đồng, tính chung đã thực hiện 113,16 tỷ đồng, đạt 57,73% vốn dự án. Dự án điện gió Hướng Linh 1 và điện gió Hướng Hiệp 1 thực hiện 9 tháng 931,94 tỷ đồng, tính chung đã thực hiện 1.522,94 tỷ đồng, đạt 53,99% vốn đăng ký. Các dự án thủy điện Đakrông 4, Hướng phùng, Húc Nghì, La Tó, thực hiện 9 tháng 625,5 tỷ đồng, tính chung thực hiện 914,1 tỷ đồng, đạt 40,56% vốn đăng ký…
4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng 9/2018 (Tính đến 16/9), toàn tỉnh có 7 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 32,8 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 4,69 tỷ đồng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 01 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 2 doanh nghiệp.
Trong quý III/2018 (Tính đến 16/90, toàn tỉnh có 71 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 399 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 5,62 tỷ đồng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 7 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh là 8 doanh nghiệp.
Tính chung từ đầu năm đến nay, có 245 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.569,8 tỷ đồng, tăng 7,93% về số doanh nghiệp và giảm 7,91% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 6,41 tỷ đồng, giảm 14,65%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 107 doanh nghiệp, tăng 10,31% so với cùng kỳ năm 2017; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 40 doanh nghiệp, tăng 11,11%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ gặp khó khăn về vốn kinh doanh; một số doanh nghiệp nằm trong Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo trước đây được ưu đãi về thuế nay không còn nên gặp khó khăn phải giải thể…
5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
5.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
a1. Cây hàng năm
* Kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm 2017-2018 và Hè Thu năm 2018
Sản xuất cây hàng năm năm 2018 có nhiều thuận lợi; vụ Đông Xuân 2017-2018, mặc dù đầu vụ thời tiết mưa rét kéo dài đã ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy lúa và một số cây trồng khác; tuy nhiên, trong vụ thời tiết thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng, nguồn nước tưới đảm bảo và sâu bệnh phát sinh ít hơn các năm trước nên năng suất hầu hết các loại cây hàng năm đều khá cao; đặc biệt, cây lúa cho năng suất đạt cao nhất từ trước đến nay. Vụ Hè Thu cây lúa dịch bệnh ít xảy ra, lịch thời vụ đảm bảo nên không có thiệt hại do bão lụt.
Về diện tích: Tính đến 15/9/2018 toàn tỉnh đã gieo cấy được 25.983,7 ha lúa vụ Đông Xuân, tăng 0,9% (+231,1 ha) so với vụ Đông Xuân năm 2016-2017 và 22.680,4 ha lúa vụ Hè Thu, tăng 0,79% (+177 ha) so với vụ Hè Thu năm 2017; cơ cấu giống lúa chủ yếu là các loại giống ngắn ngày, cho năng suất chất lượng cao như: HN6, TL6, AC5, HC95, HT1, Thiên Ưu 8, P6, NA2…; cây ngô gieo trồng 4.164,9 ha, giảm 1,98% (-84,2 ha); khoai lang 2.282,4 ha, giảm 8,41% (-209,7 ha); sắn 11.884,3 ha, giảm 3,34% (-410,7 ha); cây chất bột khác 1.806 ha, giảm 3,89% (-73,1 ha); lạc 3.579,1 ha, giảm 6,94% (-267,1 ha); rau các loại 5.222,8 ha, giảm 1,18% (-62,6 ha); đậu các loại 1.696 ha, giảm 3,72% (-65,5 ha); cây ớt cay 456,2 ha, tăng 24,58% (+90 ha)...năm nay, thời tiết thuận lợi, đủ nguồn nước tưới nên diện tích cây lúa tăng; diện tích cây ớt cay tăng do các địa phương triển khai dự án trồng ớt cay theo hợp đồng để bán cho các Doanh nghiệp. Một số cây trồng khác như: ngô, khoai lang, sắn, lạc, rau các loại, đậu các loại…giảm do đầu vụ Đông Xuân mưa rét kéo dài một số diện tích ở vùng trũng, đất ướt không gieo trồng kịp thời vụ…
Về năng suất: Năm 2018 là năm được mùa toàn diện đối với cây hàng năm do ít chịu ảnh hưởng của thiên tai và dịch bệnh. Năng suất lúa vụ Đông Xuân 2017-2018 đạt 58,4 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha so với vụ Đông Xuân năm 2016-2017; năng suất lúa vụ Hè Thu năm 2018 ước đạt 53,3 tạ/ha, tăng 11 tạ/ha so với vụ Hè Thu năm 2017; cây ngô năng suất đạt 34,3 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; cây khoai lang năng suất đạt 79,9 tạ/ha, tăng 2,9 tạ/ha; cây sắn năng suất đạt 169 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha; cây chất bột khác năng suất đạt 116,4 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha; cây lạc năng suất đạt 20,3 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha; rau các loại năng suất đạt 101,3 tạ/ha, tăng 2,5 tạ/ha; đậu các loại năng suất đạt 9,6 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha; cây ớt cay năng suất đạt 56,9 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha…
Về sản lượng: Sản lượng lúa vụ Đông Xuân 2017-2018 đạt 151.813,3 tấn, tăng 3,87% (+5.655,2 tấn); sản lượng lúa vụ Hè Thu 2018 ước đạt 120.845,4 tấn, tăng 26,97% (+25.668,1 tấn); sản lượng ngô đạt 14.295 tấn, tăng 1,82% (+255,3 tấn). Sản lượng khoai lang đạt 18.237 tấn, giảm 4,99% (-957,9 tấn); sản lượng sắn 200.844,7 tấn, giảm 3,16% (-6551 tấn); sản lượng cây chất bột khác đạt 21.023,4 tấn, giảm 3,27% (-711,7 tấn); sản lượng lạc đạt 7.275,4 tấn, giảm 3,37% (-253,6 tấn); sản lượng rau các loại đạt 52.912,3 tấn, tăng 1,3% (+680,1 tấn); sản lượng đậu các loại đạt 1.625,1 tấn, giảm 11,55% (-212,3 tấn); sản lượng ớt cay đạt 2.595,4 tấn, tăng 28,09% (+569,2 tấn)…Sản lượng một số cây trồng như: khoai lang, sắn, cây chất bột khác, lạc…giảm chủ yếu là do diện tích giảm.
Diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực có hạt
|
9 tháng
năm 2017
|
Ước 9 tháng
năm 2018
|
9 tháng 2018 so
9 tháng 2017 (%)
|
1. Diện tích (Ha)
|
|
|
|
- Lúa Đông Xuân
|
25.752,6
|
25.983,7
|
100,90
|
- Lúa Hè Thu
|
22.503,4
|
22.680,4
|
100,79
|
- Ngô
|
4249,1
|
4.164,9
|
98,02
|
2. Năng suất (Tạ/ha)
|
|
|
|
- Lúa Đông Xuân
|
56,8
|
58,4
|
102,82
|
- Lúa Hè Thu
|
42,3
|
53,3
|
126,00
|
- Ngô
|
33,0
|
34,3
|
103,94
|
3. Sản lượng (Tấn)
|
|
|
|
- Lúa Đông Xuân
|
146.158,1
|
151.813,3
|
103,87
|
- Lúa Hè Thu
|
95.177,3
|
120.845,4
|
126,97
|
- Ngô
|
14.039,7
|
14.295,0
|
101,82
|
* Tiến độ sản xuất vụ Mùa năm 2018
Vụ Mùa ở Quảng Trị, chỉ gieo lúa nương rẩy, thuộc hai huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông, giống lúa rẫy địa phương lâu năm chất lượng bị thoái hóa; hình thức canh tác không đầu tư thâm canh, không chăm sóc, không phân bón, không được tưới tiêu; đất gieo trồng chủ yếu nằm ở đồi núi sườn dốc cao nên hàng năm luôn bị rửa trôi bạc màu, do đó kết quả thu hoạch cho năng suất, sản lượng rất thấp. Diện tích lúa Mùa năm 2018 gieo trồng 2.044,2 ha, giảm 0,72% (-14,7 ha) so với năm 2017.
a2. Cây lâu năm
Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có 33.690,9 ha, tăng 0,5% (+167,8 ha) so với cùng kỳ năm 2017. Một số cây lâu năm chủ yếu như:
Cây cao su: diện tích hiện có 19.100,8 ha, giảm 1,2% (-231,2 ha) so với cùng kỳ năm 2017; sản lượng mủ khô 9 tháng ước tính đạt 12.862 tấn, tăng 5% (+612 tấn) so với cùng kỳ năm 2017. Do giá mủ cao su ổn định, khuyến khích người nông dân đầu tư, chăm sóc nên sản lượng khai thác tăng lên.
Cây cà phê: diện tích hiện có 5.106,3 ha, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2017; sản lượng cà phê nhân 9 tháng ước tính đạt 420 tấn, giảm 7,5% (-34 tấn). Chín tháng năm 2018 chủ yếu chỉ thu hoạch cà phê mít ở hai huyện miền núi, loại cây này do ít được đầu tư chăm sóc nên cho năng suất, sản lượng, cũng như giá bán thấp.
Cây hồ tiêu: diện tích hiện có 2.484,1 ha, tăng 3,1% (+75,1 ha) so với cùng kỳ năm 2017; sản lượng hạt tiêu 9 tháng ước tính đạt 1.465 tấn, giảm 40,1% (-982,5 tấn). Cây tiêu năm nay mất mùa do thời tiết và dịch bệnh; hơn nữa, giá tiêu xuống thấp nên bà con ít chăm sóc nên năng suất và sản lượng giảm.
Cây chuối: diện tích hiện có 4.425 ha, tăng 3,9% (+168 ha) so với cùng kỳ năm 2017; sản lượng chuối 9 tháng ước tính đạt 56.267 tấn, tăng 1,2% (+643 tấn). Cây chuối dể trồng, cho thu nhập khá ổn định đối với người dân miền núi nên người dân đầu tư chăm sóc, tăng diện tích hàng năm.
Cây dứa: diện tích hiện có 477 ha, tăng 33,2% (+119 ha) so với cùng kỳ năm 2017; sản lượng dứa 9 tháng ước tính đạt 4.099,4 tấn, tăng 65,2% (+1617,4 tấn). Thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, UBND tỉnh đã ký kết hợp tác liên kết với Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Công ty Cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao ở tỉnh Ninh Bình trồng dứa nguyên liệu ở một số huyện trong tỉnh theo mô hình trồng dứa phủ bạt nên diện tích và sản lượng tăng mạnh.
Diện tích, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu
|
9 tháng
năm 2017
|
Ước 9 tháng
năm 2018
|
9 tháng 2018 so
9 tháng 2017 (%)
|
1. Diện tích (Ha)
|
|
|
|
- Cao su
|
19.332,0
|
19.100,8
|
98,80
|
- Cà phê
|
4.973,0
|
5.106,3
|
102,70
|
- Hồ tiêu
|
2.409,0
|
2.484,1
|
103,10
|
- Chuối
|
4.257,0
|
4.425,0
|
103,90
|
- Dứa
|
358,0
|
477,0
|
133,2
|
2. Sản lượng ( Tấn)
|
|
|
|
- Cao su
|
12.250,0
|
12.862,0
|
105,00
|
- Cà phê
|
454,0
|
420,0
|
92,50
|
- Hồ tiêu
|
2.447,5
|
1.465,0
|
59,90
|
- Chuối
|
55.624,0
|
56.267,0
|
101,20
|
- Dứa
|
2.482,0
|
4.099,4
|
165,2
|
b. Chăn nuôi
Chăn nuôi đã có sự chuyển biến rỏ nét về tổ chức sản xuất, chăn nuôi trang trại, tập trung theo chuổi khép kín, ứng dụng khoa học kỷ thuật tiên tiến, công nghệ cao được mở rộng; nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học đang được phổ biến, nhân rộng.
Đến 01/9/2019, đàn trâu có 25.750 con, giảm 4,28% so với cùng kỳ năm 2017; đàn bò có 67.462 con, giảm 0,65%; đàn lợn thịt có 178.000 con, giảm 7,77%; đàn gia cầm có 2.572 nghìn con, tăng 0,08%; trong đó: đàn gà 2.050 nghìn con, tăng 1,74%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng ước tính đạt 30.902 tấn, giảm 1,38% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn đạt 22.687 tấn, giảm 5,05%.
Đàn lợn thịt giảm mạnh chủ yếu là do giá thịt lợn hơi giảm sâu trong năm 2017; hiện nay, giá bán thịt lợn hơi đã tăng cao nhưng giá lợn giống cũng tăng nên người chăn nuôi vẫn còn thận trọng chưa dám đầu tư.
Tổng đàn và sản lượng thịt hơi xuất chuồng
|
9 tháng
năm 2017
|
Ước 9 tháng
năm 2018
|
9 tháng 2018 so
9 tháng 2017(%)
|
1. Đàn trâu (Con)
|
26.900
|
25.750
|
95,72
|
2. Đàn bò (Con)
|
67.900
|
67.462
|
99,35
|
3. Đàn lợn (Con)
|
193.000
|
178.000
|
92,23
|
4. Đàn gia cầm (Nghìn con)
|
2.570
|
2.572
|
100,08
|
- TĐ: Đàn gà (Nghìn con)
|
2.015
|
2.050
|
101,74
|
5. SL thịt hơi xuất chuồng (Tấn)
|
31.333
|
30.902
|
98,62
|
- TĐ: Thịt lợn (Tấn)
|
23.472
|
22.687
|
94,95
|
Tình hình dịch bệnh: Trong 9 tháng năm 2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra dịch lở mồm long móng tại 10 xã, phường, thị trấn thuộc 7 huyện, thành phố (TP Đông Hà, huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ và Hướng Hóa); tổng số gia súc mắc bệnh 239 con (29 con trâu, 178 con bò và 32 con lợn); chết và tiêu hủy 01 con bò và 45 con lợn. Nhìn chung tình hình dịch bệnh giảm so với cùng kỳ năm trước. Ngay khi nhận được tin báo dịch bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã phối hợp với các địa phương tổ chức tiêu độc khử trùng, tiêm phòng kịp thời, vì vậy dịch bệnh nhanh chóng được bao vây, khống chế và không lây lan trên diện rộng.
Tình hình tiêm phòng: Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã cung ứng các loại vắc xin tiêm phòng định kỳ vụ Xuân và vụ Hè Thu 2018 cho đàn gia súc, gia cầm. Tính đến ngày 12/9/2018 số liệu tiêm được như sau: Vắc xin THT trâu bò 38.414 con, đạt 63,6 % kế hoạch; Vắc xin Kép lợn 75.110 con, đạt 84,9 %; Vắc xin Dại chó 38.586 con, đạt 99,7 %; Vắc xin LMLM trâu bò 48.825 con, đạt 77,04 %; Vắc xin LMLM lợn 1.700 con (Tiêm bao vây chống dịch); Vắc xin cúm gia cầm được 194.745 lượt con.
5.2. Lâm nghiệp
Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung 9 tháng năm 2018 đạt 1.098,5 ha, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 1.640 nghìn cây, tăng 5,13% diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 22.457 ha, tăng 3,62%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh đạt 1.810 ha, tăng 5,85%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ đạt 93.105 ha, tăng 78,26%. Năm nay, thực hiện giao khoán bảo vệ rừng của tỉnh tăng mạnh nhờ vào ngân sách từ nguồn vốn sự nghiệp phát triển rừng, nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng và nguồn tài trợ chương trình JICA. Quảng Trị được đánh giá là tỉnh đi đầu trong cả nước về công tác xây dựng chứng chỉ rừng FSC với tổng diện tích được cấp 22.158,7 ha, chiếm hơn 11% trong cả nước.
Sản lượng gỗ khai thác 9 tháng ước tính đạt 494.382 m3, tăng 10,95%; sản lượng củi khai thác đạt 153.576 ste, giảm 3,14%. Trong thời gian qua, do chất lượng rừng trồng được nâng cao với các giống cây lâm nghiệp cho năng suất cao nên sản lượng gỗ khai thác tăng nhanh. Hiện nay phần lớn gỗ khai thác được cung cấp nguyên liệu cho 2 Nhà máy của Công ty MDF-VRG Quảng Trị và xuất khẩu sang Lào.
Trồng rừng và khai thác lâm sản
|
9 tháng
năm 2017
|
Ước 9 tháng
năm 2018
|
9 tháng 2018 so
9 tháng 2017 (%)
|
1. Trồng rừng tập trung (Ha)
|
1.020
|
1.098,5
|
107,70
|
2. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán (Nghìn cây)
|
1.560
|
1.640
|
105,13
|
3. Sản lượng gỗ khai thác (M3)
|
445.600
|
494.382
|
110,95
|
4. Sản lượng củi khai thác (Ster)
|
158.562
|
153.576
|
96,86
|
Thiệt hại rừng: Năm 2018, các đơn vị tăng cường kiểm tra, theo dỏi, dự báo tình hình sâu bệnh trên địa bàn, đặc biệt là sâu róm thông nên tình hình sâu bệnh được kiểm soát; công tác bảo vệ rừng được tăng cường, tuy nhiên do nắng nóng kéo dài và gió Tây Nam tăng cường nên trong 9 tháng đã xảy ra 05 vụ cháy rừng tại huyện Vĩnh Linh, Hải Lăng và TP Đông Hà, diện tích rừng bị cháy 14,05 ha, giá trị thiệt hại 341,5 triệu đồng.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong 9 tháng, đã phát hiện và bắt giữ 210 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 193 vụ, lâm sản tịch thu 264,3 m3 gỗ các loại, 190,2 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
5.3. Thủy sản
Tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện cơ cấu lại ngành thủy sản và triển khai mạnh mẽ các chính sách phát triển thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, Quyết định 48/2010/QĐ-TTg.
Đến nay, số tàu thuyền khai thác biển có động cơ toàn tỉnh có 2.168 chiếc, tăng 12,39% (+239 chiếc) với tổng công suất 110.288 CV, tăng 8,33% (+8478 CV) so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 188 chiếc từ 90 CV trở lên, giảm 1,57% (-3 chiếc).
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 167 hộ nuôi cá lồng bè, tăng 10,08% (+18 hộ) so với cùng thời điểm năm trước với 264 lồng, tăng 7,32% (+18 lồng); thể tích lồng nuôi 5.613 m3, tăng 84,33% ( +2.568 m3).
Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng ước tính đạt 3.253,5 ha, tăng 2,63% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 2.120 ha, tăng 1,03%; nuôi tôm 1.128,4 ha, tăng 5,46%; nuôi thủy sản khác 5,08 ha, tăng 176,09%.
Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng ước tính đạt 25.629,4 tấn, tăng 2,03% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 19.545,4 tấn, tăng 0,34%; tôm 3.006 tấn, tăng 4,04%; thủy sản khác 3.078 tấn, tăng 11,89%. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 5.494,4 tấn, tăng 2,58% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.745,4 tấn, tăng 1,17%; tôm 2.725 tấn, tăng 3,4%. Sản lượng cá nuôi nhìn chung ổn định; riêng sản lượng tôm nuôi tăng do diện tích nuôi tăng; dịch bệnh trên tôm nuôi ít xảy ra và được kịp thời khống chế nên cho năng suất cao.
Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 20.135 tấn, tăng 1,88% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 16.800 tấn, tăng 0,21%; tôm 281 tấn, tăng 10,63%; thủy sản khác 3.054 tấn, tăng 11,30%. Năm nay thời tiết, ngư trường thuận lợi cho hoạt động đánh bắt; số tàu thuyền đánh bắt tăng khá, nhưng luồng cá ít xuất hiện nên sản lượng thủy sản khai thác tăng chậm.
Sản lượng thủy sản
|
9 tháng
năm 2017
(Tấn)
|
Ước 9 tháng
năm 2018
(Tấn)
|
9 tháng 2018 so 9 tháng
2017 (%)
|
1. Sản lượng thủy sản nuôi trồng
|
5.356,2
|
5.494,4
|
102,58
|
- Cá
|
2.713,8
|
2.745,4
|
101,17
|
- Tôm
|
2.635,4
|
2.725,0
|
103,40
|
- Thủy sản khác
|
7,0
|
24,0
|
342,86
|
2. Sản lượng thủy sản khai thác
|
19.763,0
|
20.135,0
|
101,88
|
- Cá
|
16.765,0
|
16.800,0
|
101,88
|
- Tôm
|
254,0
|
281,0
|
110,63
|
- Thủy sản khác
|
2.744,0
|
3.054,0
|
111,30
|
Dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Từ đầu năm đến nay đã xảy ra dịch bệnh trên tôm nuôi với bệnh Hoại tử gan tụy cấp tính và bệnh Đốm trắng trên diện tích 97,62 ha tại 4 huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong và Tp Đông Hà. Ngành chức năng đã cấp 1.509 kg hóa chất chlorine nguồn dự trử quốc gia hổ trợ dập dịch kịp thời, không để lây lan sang các vùng nuôi khác.
6. Sản xuất công nghiệp
Chín tháng năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm hơn nhiều so với 9 tháng năm 2017; Nguyên nhân do một số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sản xuất cầm chừng do thiếu nguyên liệu (Sản xuất tinh bột sắn, dăm gỗ và gỗ xẻ, dầu thông…); một số doanh nghiệp gần như đã sản xuất hết công suất nên tốc độ tăng chậm lại (Nhà máy gỗ MDF-VRG Quảng Trị, Công ty TNHH cao su camel Việt Nam, Công ty Cp Bia Hà Nội Quảng Trị…); một số doanh nghiệp sản phẩm sản xuất khó khăn về thị trường tiêu thụ (sản phẩm tấm lợp của Công ty TNHH 1TV Thương mại số 1, Công ty Cổ phần Hoàng Hương…); Hơn nữa, năm nay số dự án hoàn thành đi vào hoạt động không nhiều…
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2018 ước tính tăng 4,73% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 2,99%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,13%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,63%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 7,76%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2018 ước tính tăng 10,53% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 17,41%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,97%; sản xuất và phân phối điện tăng 26,01%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 6,03%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III/2018 ước tính tăng 9,59% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 8,26%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,93%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,92%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,92%.
Tính chung 9 tháng năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 8,89% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2017 tăng 15,31%); trong đó: ngành khai khoáng tăng 13,54%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,04%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,41%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 8,24%. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao do Nhà máy điện gió Hướng Linh đưa vào hoạt động sản xuất.
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp
|
Tháng 9/2018 so cùng kỳ năm trước (%)
|
Quý III/2018 so cùng kỳ năm trước (%)
|
9 tháng 2018 so 9 tháng 2017 (%)
|
Toàn ngành công nghiệp
|
110,53
|
109,59
|
108,89
|
- Khai khoáng
|
117,41
|
108,26
|
113,54
|
- Công nghiệp chế biến, chế tạo
|
106,97
|
107,93
|
107,04
|
- Sản xuất và PP điện
|
126,01
|
118,92
|
116,41
|
- Cung cấp nước, HĐ quản lý và xử lý rác thải, nước thải
|
106,03
|
104,92
|
108,24
|
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: khai thác quặng kim loại tăng 26,85%; sản xuất trang phục tăng 17,12%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 14,03%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 25,24%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 43,71%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 30,60%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,41%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,80%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,91%; sản xuất đồ uống tăng 2,13%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,09%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 0,12%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 0,84%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 1,25%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai khoáng khác giảm 2,23%; dệt giảm 27,83%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 24,55%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 1,31%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 9,19%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 19,25%.
Một số sản phẩm chủ yếu trong quý III/2018 so với cùng kỳ năm trước tăng cao là: quặng inmenit và tinh quặng inmenit tăng 223,67%; bộ com lê, quần áo tăng 27,26%; dăm gỗ tăng 84,13%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 40,03%; gạch và gạch khối bằng xi măng, bê tông tăng 16,10%; điện sản xuất tăng 25,69%; điện thương phẩm tăng 15,38%; nước máy tăng 15,56%...Một số sản phẩm tăng thấp là: nước hoa quả, tăng lực tăng 11,12%; ván ép tăng 10,46%; dầu nhựa thông tăng 1,63%; săm dùng cho xe máy, xe đạp tăng 0,52%; gạch xây dựng bằng đất sét nung tăng 3,99%; xi măng tăng 3,47%...Một số sản phẩm giảm là: quặng titan và tinh quặng titan khác giảm 26,62%; quặng zircon và tinh quặng zircon giảm 19,63%; đá xây dựng giảm 11,85%; thủy, hải sản chế biến giảm 33,57%; tinh bột sắn giảm 18,82%; bia lon giảm 5,42%; gỗ cưa hoặc xẻ giảm 9,17%; phân hóa học giảm 8,58%; tấm lợp proximăng giảm 10,01%...
Một số sản phẩm chủ yếu trong 9 tháng năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng cao là: quặng inmenit và tinh quặng inmenit tăng 55,82%; thủy, hải sản chế biến tăng 20,71%; bộ com lê, quần áo tăng 25,27%; dăm gỗ tăng 19,96%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 43,59%; săm dùng cho xe máy, xe đạp tăng 21,64%; điện sản xuất tăng 33,85%...Một số sản phẩm tăng thấp là: quặng titan và tinh quặng titan khác tăng 10,55%; quặng zircon và tinh quặng zircon tăng 4,11%; nước hoa quả, tăng lực tăng 9,36%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 5,71%; ván ép tăng 0,95%; gạch và gạch khối bằng xi măng, bê tông tăng 9,45%; xi măng tăng 0,63%; điện thương phẩm tăng 9,06%; nước máy tăng 12,71%. Một số sản phẩm giảm là: đá xây dựng giảm 4,18%; tinh bột sắn giảm 28,96%; bia lon giảm 8,45%; dầu nhựa thông giảm 7,30%; phân hóa học giảm 2,34%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 5,02%; tấm lợp proximăng giảm 24,37%...
7. Thương mại, dịch vụ
7.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Thị trường bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2018 tại Quảng Trị khá sôi động. Hàng hóa trên thị trường phong phú về chũng loại, đa dạng về mẫu mã; hàng sản xuất trong nước chất lượng cao ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng; giá cả tương đối ổn định; môi trường biển đã phục hồi, hoạt động kinh doanh dịch vụ tại các điểm du lịch biển nhộn nhịp hơn…nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khá so với cùng kỳ năm trước.
Trên địa bàn tỉnh đã tổ chức Hội chợ Lễ hội mua sắm Xuân Quảng Trị 2018, Hội chợ triển lãm Thương mại – Du lịch Hướng Hóa 2018, Hội chợ Công Thương khu vực miền Trung – Tây Nguyên – Nhịp cầu Xuyên Á – Quảng Trị 2018; vào các dịp Lễ, Tết các doanh nghiệp đã mở rộng mạng lưới bán lẻ về các vùng nông thôn, miền núi phục vụ nhu cầu của người dân. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tăng cường công tác quản lý thị trường; tổ chức các đoàn kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…nhằm bảo vệ người tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
|
Ước thực hiện quý III/2018
( Tỷ đồng)
|
Ước thực hiện 9 tháng
năm 2018 (Tỷ đồng)
|
Ước thực hiện quý III/2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
Ước thực hiện 9 tháng 2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
Tổng số
|
6.483,95
|
19.947,39
|
105,92
|
109,05
|
- Bán lẻ hàng hóa
|
5.434,12
|
16.933,26
|
105,58
|
109,04
|
- Lưu trú và ăn uống
|
783,08
|
2.207,35
|
107,31
|
109,12
|
- Du lịch lữ hành
|
9,43
|
27,04
|
108,55
|
109,82
|
- Dịch vụ khác
|
257,32
|
779,73
|
108,86
|
108,93
|
Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2018 đạt 2.111,60 tỷ đồng, tăng 0,65% so với tháng trước và tăng 6,88% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 1.768,52 tỷ đồng, tăng 0,68% so với tháng trước và tăng 6,64% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 253,99 tỷ đồng, tăng 0,53% và tăng 8,49%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3 tỷ đồng, giảm 1,43% và tăng 7,78%; doanh thu dịch vụ khác đạt 86,09 tỷ đồng, tăng 0,45% và tăng 7,18%.
Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý III/2018 đạt 6.483,95 tỷ đồng, tăng 5,92% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý III, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 5.434,12 tỷ đồng, tăng 5,58% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 783,08 tỷ đồng, tăng 7,31%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 9,43 tỷ đồng, tăng 8,55%; doanh thu dịch vụ khác đạt 257,32 tỷ đồng, tăng 8,86%.
Tính chung 9 tháng năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 19.947,38 tỷ đồng, tăng 9,05% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng ước tính đạt 16.933,26 tỷ đồng, chiếm 84,89% tổng mức và tăng 9,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 8,86%; hàng may mặc tăng 10,46%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 8,10%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 9,91%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 9,50%; phương tiện đi lại tăng 11,76%; xăng dầu các loại tăng 7,97%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 2.207,35 tỷ đồng, chiếm 11,07% tổng mức và tăng 9,12% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 66,22 tỷ đồng, tăng 7,94%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.141,13 tỷ đồng, tăng 9,16%.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 27,04 tỷ đồng, chiếm 0,14% tổng mức và tăng 9,82% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 779,73 tỷ đồng, chiếm 3,90% tổng mức và tăng 8,93% so với cùng kỳ năm trước.
7.2. Hoạt động vận tải
Hoạt động kinh doanh vận tải 9 tháng năm 2018 trên địa bàn diển biến bình thường. Trong điều kiện kinh tế phát triển; cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện; số lượng và chất lượng phương tiện vận tải được nâng lên đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân nên vận tải hành khách và hàng hóa tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu vận tải tháng 9/2018 ước tính đạt 122,60 tỷ đồng, tăng 5,33% so với tháng trước và tăng 20,54% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 40,74 tỷ đồng, tăng 2,82% và tăng 8,87%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 79,40 tỷ đồng, tăng 6,64% và tăng 26,74%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 2,46 tỷ đồng, tăng 6,11% và tăng 50,13%. Dự ước quý III/2018 doanh thu vận tải ước tính đạt 353,73 tỷ đồng, tăng 10,99% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 120,04 tỷ đồng, tăng 7,41%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 226,53 tỷ đồng, tăng 12,15%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 7,16 tỷ đồng, tăng 44,22%. Tính chung 9 tháng năm 2018, doanh thu vận tải ước tính đạt 985,83 tỷ đồng, tăng 8,50% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 361,73 tỷ đồng, tăng 7,94%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 603,25 tỷ đồng, tăng 7,97%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 20,85 tỷ đồng, tăng 40,98%.
Ước tính số lượt hành khách vận chuyển tháng 9/2018 đạt 578,94 nghìn HK, tăng 3,03% so với tháng trước và tăng 2,31% so với tháng cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển đạt 55,17 triệu HK.km, tăng 2,18% và tăng 12,72%. Ước tính quý III/2018 số lượt hành khách vận chuyển đạt 1.639,99 nghìn HK, tăng 5,39% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 161,16 triệu HK.km, tăng 9,27%. Tính chung 9 tháng năm 2018, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 5.170,27 nghìn HK, tăng 3,05% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 486,04 triệu HK.km, tăng 6,04%.
Ước tính khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 9/2018 đạt 840,77 nghìn tấn, tăng 5,10% so với tháng trước và tăng 9,45% so với tháng cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt 66,39 triệu tấn.km, tăng 3,54% và tăng 4,44%. Ước tính khối lượng hàng hoá vận chuyển quý III/2018 đạt 2.416,09 nghìn tấn, tăng 2,99% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt 182,05 triệu tấn.km, tăng 9,48%. Tính chung 9 tháng năm 2018, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 6.666,95 nghìn tấn, tăng 3,12% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt 449,73 triệu tấn.km, tăng 5,67%.
Vận tải hành khách và hàng hóa
|
Ước thực hiện quý III/2018
|
Ước thực hiện 9 tháng
năm 2018
|
Ước thực hiện quý III/2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
Ước thực hiện 9 tháng 2018 so với cùng kỳ năm 2017 (%)
|
1. Vận tải hành khách
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn HK)
|
1.639,99
|
5.170,27
|
105,39
|
103,05
|
- Luân chuyển (Triệu HK.Km)
|
161,16
|
486,04
|
109,27
|
106,04
|
2. Vận tải hàng hóa
|
|
|
|
|
- Vận chuyển (Nghìn tấn)
|
2.416,09
|
6.666,95
|
102,99
|
103,12
|
- Luân chuyển (Triệu tấn.Km)
|
182,05
|
449,73
|
109,48
|
105,67
|
7.3. Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Tỉnh Quảng Trị đã phối hợp với các địa phương khác trong vùng, các địa phương trên Hành lang kinh tế Đông Tây tổ chức thành công nhiều sự kiện, hoạt động xúc tiến, quảng bá về du lịch. Tiếp tục nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch mang đặc trưng của tỉnh như du lịch lịch sử cách mạng, du lịch hoài niệm chiến trường xưa và đồng đội, du lịch văn hóa tâm linh, du lịch sinh thái, biển, đảo, mua sắm, từng bước hình thành một số tuyến, địa bàn, khu du lịch trọng điểm…Trong 9 tháng năm 2018, hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú và du lịch lữ hành của tỉnh có những chuyển biến tích cực.
Số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ tháng 9/2018 ước tính đạt 31.612 lượt, giảm 2,37% so với tháng trước và tăng 10,02% so với tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ đạt 35.767 ngày khách, giảm 0,84% và tăng 10,11%; lượt khách du lịch theo tour đạt 1.203 lượt, giảm 3,53% và tăng 8,80%; ngày khách du lịch theo tour đạt 3.257 ngày khách, giảm 2,19% và tăng 10,09%.
Tính chung 9 tháng năm 2018, số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước tính đạt 316.429 lượt, tăng 9,03% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ đạt 324.209 ngày khách, tăng 8,97%; lượt khách du lịch theo tour đạt 13.844 lượt, tăng 8,14%; ngày khách du lịch theo tour đạt 35.717 ngày khách, tăng 8,75%.
7.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 167 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 43 bưu cục cấp 2 và 3, 01 bưu cục hệ 1, có 109 bưu điện văn hóa xã, 6 đại lý chuyển phát, 8 thùng thư công cộng độc lập. Có 94/141 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày.
Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là: 2.212 trạm (807 trạm 2G, 939 trạm 3G, 466 trạm 4G).
Ước tính đến 30/9/2018, toàn tỉnh có 614.656 thuê bao điện thoại, tăng 6,19% so với cùng thời điểm năm trước. Trong tổng số thuê bao điện thoại hiện có, số thuê bao cố định 14.532 thuê bao, giảm 17,53%; số thuê bao di động 600.124 thuê bao, tăng 6,93%. Số thuê bao điện thoại phát triển mới trong 9 tháng năm 2018 là 60.647 thuê bao, giảm 42,87% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thuê bao cố định phát triển mới 523 thuê bao, giảm 16,98%; thuê bao di động phát triển mới 60.124 thuê bao, giảm 43,03%. Nguyên nhân số thuê bao di động phát triển mới giảm mạnh là do Bộ TT&TT siết chặt việc quản lý SIM rác, thu hồi SIM kích hoạt sẵn đăng ký sai thông tin thuê bao…
Số thuê bao Internet hiện có là 70.826 thuê bao, tăng 19,32% so với cùng thời điểm năm trước. Số thuê bao Internet phát triển mới trong 9 tháng năm 2018 là 6.245 thuê bao, tăng 38,78% so với cùng kỳ năm trước.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
Lực lượng lao động ước tính đến 30/9/2018 là 348.980 người; trong đó: nam 177.350 người, chiếm 50,82%; nử 171.630 người, chiếm 49,18%. Lực lượng lao động khu vực thành thị 97.430 người, chiếm 27,92%; khu vực nông thôn 251.550 người, chiếm 72,08%.
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính 338.790 người, chiếm 97,08% lực lượng lao động của tỉnh; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 44,67% ( Năm 2017 là 49,28%), khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19,25% (Năm 2017 là 16,40%), khu vực dịch vụ chiếm 36,08% (Năm 2017 là 34,32%). Như vậy, cơ cấu lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã chuyển dịch sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ do thu nhập khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản thấp và không ổn định.
Quý III/2018, tỷ lệ thất nghiệp chung ước tính 2,92%; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 3,27% (Quý II/2018 tỷ lệ này là 2,75% và 2,86%). Tỷ lệ thất nghiệp quý III tăng lên là do một số giáo viên bị cắt hợp đồng do sáp nhập trường trong ngành giáo dục; một số sinh viên ra trường trở về quê hương chưa có việc làm…
Trong 9 tháng năm 2017, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 10.747 người (Cao đẳng 551 người, Trung cấp 1.459 người, sơ cấp và đào tạo thường xuyên 8.737 người).
Toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 9.642 lao động (5.111 lao động làm việc trong tỉnh, 2.985 lao động làm việc ngoài tỉnh và 1.546 lao động làm việc ở nước ngoài).
Đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho 2.062 lao động thất nghiệp và đã giải quyết cho 1.951 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền chi trợ cấp hơn 20,7 tỷ đồng.
2. Tình hình đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
2.1. Đời sống dân cư
Chín tháng năm 2018, tình hình kinh tế của tỉnh đạt được những kết quả khả quan. Sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lương thực có hạt đạt 28,7 vạn tấn, tăng 12,36% so với cùng kỳ năm trước; ngành thủy sản, sản lượng thủy sản đạt 25.629,4 tấn, tăng 2,03%; công tác chi trả bồi thường sự cố môi trường biển đã cơ bản hoàn thành với hơn 1.000 tỷ đồng…
Hơn nữa, ngay từ đầu năm Tỉnh đã xây dựng kế hoạch, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể ở địa phương tổ chức vận động nhân dân phát huy truyền thống tương thân, tương ái thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo...bảo đảm không để hộ nghèo nào thiếu đói. Vì vậy, trong 9 tháng năm 2018 đời sống dân cư nói chung ổn định, tình hình thiếu đói trong khu vực nông thôn không xảy ra.
Đời sống của cán bộ, công chức và người lao động trong các doanh nghiệp: Theo Nghị định số 72/2018/NĐ-CP, từ ngày 01/7/2018 mức lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức… tăng từ 1.300.000 đồng lên 1.390.000 đồng; Theo Nghị định số 141/2017/NĐ-CP, từ ngày 01/01/2018 mức lương tối thiểu vùng của người lao động trong các doanh nghiệp tăng thêm từ 180.000 – 230.000 đồng/tháng, đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động.
2.2. Công tác an sinh xã hội
Trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018, Tỉnh đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công cách mạng, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh. Tổng số quà tặng cho gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ bảo trợ xã hội là 74.704 suất quà, tổng kinh phí 30.079,1 triệu đồng. Trong đó: Quà của Chủ tịch Nước 31.693 suất với kinh phí 6.461,4 triệu đồng; Quà từ ngân sách địa phương (tỉnh/huyện) 4.236 suất với kinh phí 1.973,7 triệu đồng; Quà các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp 38.775 suất với trị giá 21.644 triệu đồng.
Nhân dịp Kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, có 26.584 lượt người có công và thân nhân được nhận quà Chủ tịch nước với tổng kinh phí trên 5.412,2 triệu đồng; Lãnh đạo tỉnh thăm và tặng quà cho các gia đình chính sách tiêu biểu 18 suất quà với kinh phí 21,6 triệu đồng; Các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân trao 6.002 suất quà với kinh phí 2.937,885 triệu đồng cho các đối tượng người có công với cách mạng.
Tiếp nhận 500 tấn gạo Chính phủ Hàn Quốc hổ trợ cho tỉnh Quảng Trị để cứu trợ cho 7.167 hộ nghèo (33.334 nhân khẩu) đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; huyện Vĩnh Linh trích ngân sách 99 triệu đồng mua hơn 08 tấn gạo để cứu trợ cho hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thuộc 03 xã vùng dân tộc thiểu số.
Trong 9 tháng năm 2018, đã hổ trợ vay vốn ưu đãi cho 12.345 lượt hộ nghèo và hộ chính sách khác để phát triển sản xuất, kinh doanh với tổng số tiền cho vay 425.237 triệu đồng. Thực hiện cấp 162.354 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn và người dân ở vùng đặc biệt khó khăn với tổng kinh phí 115 tỷ đồng. Thực hiện miễn, giảm học phí cho 22.754 lượt học sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo và hổ trợ về chi phí học tập cho 26.812 lượt học sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo với tổng kinh phí 18.547 triệu đồng. Hổ trợ tiện cho 19.541 hộ nghèo với kinh phí 7,9 tỷ đồng.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 33.266 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; trong đó: 13.989 người khuyết tật; 1.337 đối tượng đơn thân nuôi con nhỏ, hộ nghèo; 190 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 899 người cao tuổi cô đơn; 13.501 người từ đủ 80 tuổi trở lên; 19 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 3.276 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng; 37 gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em không nơi nương tựa; 23 người nhận nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng.
3. Giáo dục, đào tạo
Năm học 2017-2018, là năm thứ Tư ngành Giáo dục và Đào tạo thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì ổn định và có bước phát triển mới: Cấp tiểu học có 57.334 học sinh, trong đó: số học sinh hoàn thành chương trình lớp học là 56.394 em, chiếm 98,36%; số học sinh chưa hoàn thành chương trình là 758 em, chiếm 1,32%; 182 học sinh không đánh giá, xếp loại. Cấp trung học cơ sở có 42.383 học sinh, trong đó: giỏi 23,08%, khá 38,24%, trung bình 35,58%, yếu 2,58%, kém 0,08% (năm học trước tương ứng là: 22,38%, 37,42%, 36,40%, 3,14%, 0,11%). Trung học phổ thông có 22.631 học sinh, trong đó: giỏi 11,7%, khá 50,85%, trung bình 33,12%, yếu 3,97%, kém 0,37% (năm học trước tương ứng là: 11,79%, 50,04%, 33,9%, 4,04%, 0,22%).
Năm nay có 11.591 học sinh được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học, đạt 99,62%, giảm 0,18% so với năm học trước; có 10.387 học sinh đạt tiêu chuẩn tốt nghiệp THCS, đạt 99,81%, tăng 0,11%; có 6.749 học sinh tốt nghiệp THPT, đạt 95,15%, giảm 0,75%; có 209 học sinh tốt nghiệp bổ túc THPT, đạt 86,01%, tăng 3,35%.
Kỳ thi học sinh giỏi văn hoá THPT cấp quốc gia năm 2018, tỉnh Quảng Trị đạt 16 giải, trong đó: 01 giải nhất, 06 giải nhì, 03 giải ba và 06 giải khuyến khích; Có 01 em học sinh được chọn vào đội tuyển dự thi khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Có 3 đề tài khoa học kỹ thuật dự thi cấp quốc gia đạt 01 giải nhì chung cuộc và 02 giải khuyến khích do các trường đại học trao tặng.
Tổ chức tốt kỳ thi khảo sát năng lực giáo viên ở tất cả các cấp học. Kết quả: Cấp học mầm non có 823 GV dự thi, 815 GV đạt điểm từ trung bình trở lên (tỷ lệ 99,03%). Cấp Tiểu học có 950 GV tham gia khảo sát, 927 GV đạt 5 điểm trở lên môn tiếng Việt (tỷ lệ 97,58%), 932 GV đạt 5 điểm trở lên môn tiếng Toán (tỷ lệ 98,11%). Cấp THCS và THPT có 638 GV THCS và 436 GVTHPT tham gia khảo sát, 580 GVTHCS đạt điểm trung bình trở lên (tỷ lệ 90,9%), 421 GVTHPT đạt điểm trung bình trở lên (tỷ lệ 96,56%). Khối GDTX có 5 GV tham gia khảo sát, có 4 GV đạt trung bình trở lên (tỷ lệ 80%).
Năm học 2017-2018, toàn tỉnh có 647 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,52%, giảm 0,17% so với năm học 2016-2017; trong đó cấp tiểu học có 31 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,05%; cấp THCS có 246 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,58%; cấp THPT có 370 học sinh bỏ học, tỷ lệ 1,58%.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được các cấp, các ngành và các trường học quan tâm. Đến nay, toàn tỉnh có 280 trường đạt chuẩn quốc gia (tăng 35 trường so với năm học 2016 – 2017), trong đó: mầm non 89 trường, tỷ lệ 52,66%; tiểu học 120 trường, tỷ lệ 77,92%; trung học cơ sở 62 trường, tỷ lệ 47,69%; trung học phổ thông 9 trường, tỷ lệ 29,03%.
Công tác phổ cập giáo dục tiếp tục được duy trì vững chắc với nhiều giải pháp hiệu quả từ tỉnh đến huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị trường học. Kết quả có 10/10 huyện, thị xã, thành phố duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đạt mức độ 3, phổ cập giáo dục THCS đạt mức độ 1. Các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục thực hiện phổ cập bậc trung học theo Nghị quyết số 17/NQ-HĐND và Kế hoạch số 1531/KH-UBND.
Năm học 2018-2019, Ngành giáo dục đào tạo tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Kế hoạch của Tỉnh ủy và Đề án của Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW.
Số liệu sơ bộ đầu năm học 2018-2019, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 244 trường học, giảm 72 trường so với năm học trước (Tiểu học 86 trường, giảm 69 trường; THCS 60 trường, giảm 52 trường; PTCS 67 trường, tăng 49 trường; THPT 25 trường, giảm 2 trường; TH 5 trường, tăng 2 trường; Phổ thông 01 trường, bằng năm học trước). Số lớp học có 4.459 lớp học, giảm 16 lớp so với năm học trước (Tiểu học 2.540 lớp, tăng 7 lớp; THCS 1.258 lớp, giảm 39 lớp; THPT 661 lớp, tăng 16 lớp). Số học sinh phổ thông có 126.295 em, tăng 2,25% (Tiểu học 59.329 em, tăng 3,23%; THCS 42.933 em, tăng 0,61%; THPT 24.033 em, tăng 2,83%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 7.704 GV, giảm 4,36% (Tiểu học 3.510 GV, giảm 7,12%; THCS 2.595 GV, giảm 5,91%; THPT 1.599 GV, tăng 5,34%). Giáo dục mầm non có 167 trường mẫu giáo và mầm non; nhà trẻ có 5.250 cháu, giảm 9,67% so với năm học trước; 590 cô nuôi dạy trẻ, giảm 5,60%; mẫu giáo có 33.299 học sinh, giảm 3,52%; 2.327 giáo viên, tăng 0,43%.
4. Y tế
4.1. Tình hình khám, chữa bệnh
Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 19 Bệnh viện và Phòng khám đa khoa khu vực; 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 03 cơ sở y tế khác.
Toàn tỉnh có 2.025 giường bệnh (không kể trạm xá), tăng 16,71% so với cùng kỳ năm trước. Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về chất lượng chuyên môn; có 2.535 cán bộ ngành y, giảm 0,51% so với cùng kỳ năm trước (Trong đó có 576 bác sĩ trở lên, tăng 0,70%); có 183 cán bộ ngành dược, tăng 1,10% (Trong đó có 55 dược sỹ cao cấp trở lên, tăng 3,77%).
Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Chín tháng năm 2018 ước tính có 981.975 lượt người khám bệnh, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; 104.000 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, tăng 5%. Trong dịp Lễ Tết, Tỉnh đã chỉ đạo các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh trực 24/24 giờ, bảo đảm đủ nhân lực, thuốc, trang thiết bị, phương tiện để xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu tai nạn giao thông, ngộ độc, sinh đẻ trong những ngày Lễ, Tết. Đối với các bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện trong dịp Tết, tổ chức chăm sóc, phục vụ chu đáo người bệnh còn nằm lại điều trị cả về vật chât và tinh thần; đặc biệt, tổ chức thăm hỏi, chúc Tết những người bệnh thuộc diện chính sách và người nghèo.
4.2. Tình hình dịch bệnh
Ngay từ đầu năm, tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch phòng chống dịch bệnh chung và các bệnh như: Sốt xuất huyết Dengue, Zika, Cúm A/H5N1, A/H7N9, Tay chân miệng, Sởi – Rubella, Dại, phòng chống dịch bệnh trong mùa Đông Xuân và Hè Thu… Tổ chức các hoạt động truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường giám sát dịch tể tại tuyến xã, phường, các cửa khẩu, các ổ dịch cũ, các khu vực đông dân cư để phát hiện sớm và xử lý kịp thời không để bùng phát thành dịch; tổ chức tốt công tác xử lý môi trường, làm sạch và khử khuẩn nguồn nước uống, nước sinh hoạt trong vùng hạn hán; tổ chức thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm và kịp thời các hành vi vi phạm nhằm bảo đảm công tác phòng chống dịch có hiệu quả. Chuẩn bị đầy đủ cơ sở thuốc, hóa chất để đảm bảo công tác cấp cứu, khám chữa bệnh và phòng, chống dịch tại cộng đồng…
Tháng 9/2018, trên địa bàn tỉnh có 974 trường hợp mắc bệnh cúm, 34 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 69 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 11 trường hợp mắc bệnh quai bị, 12 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 162 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 14 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut.
Tính chung 9 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh có 8.144 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 16,96% so với cùng kỳ năm trước; 252 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 5,26%; 483 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, tăng 2,55%; 212 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 28,86%; 498 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 79,78%; 1.329 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 6,28%; 87 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 46,95%. Không có trường hợp tử vong do dịch bệnh.
4.3.Tình hình nhiễm HIV/AIDS
Ngành Y tế đã tập trung truyền thông trực tiếp tại các điểm nóng về dịch HIV/AIDS đối với các đối tượng nguy cơ cao, tư vấn xét nghiệm HIV với phụ nữ mang thai để dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con… Tổ chức khám, chăm sóc, điều trị cho phạm nhân nhiễm HIV tại trại giam Nghĩa An; giám sát phát hiện và can thiệp giảm tác hại để khống chế HIV, quản lý tốt cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone, góp phần cùng cộng đồng ngăn chặn HIV lan rộng và giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; hướng tới mục tiêu ba không: không còn người nhiễm mới HIV, không còn người tử vong do AIDS và không còn kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS.
Trong tháng không phát hiện thêm trường hợp nhiễm HIV/AIDS. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 220 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ); trong đó có 65 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 95 người.
4.4.Tình hình ngộ độc thực phẩm
Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP; Tỉnh đã làm tốt công tác quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm; giám sát nguy cơ và phòng chống ngộ độc thực phẩm; đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông, thông tin chính xác, kịp thời, toàn diện, có trách nhiệm, trung thực các vấn đề liên quan đến ATTP. Đề cao vai trò trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật về ATTP. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đảm bảo ATTP tại các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan quản lý, tổ chức xã hội và người tiêu dùng đối với việc thực thi pháp luật về ATTP của các cá nhân, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Phát hiện đề xuất xữ lý nghiêm các trường hợp vi phạm với mục tiêu cuối cùng là hạn chế không để xãy ra ngộ độc thực phẩm và tử vong do ngộ độc thực phẩm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Trong tháng 9/2018, đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn huyện Gio Linh làm 44 người bị ngộ độc, 24 người phải nhập viện. Tính chung 9 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ ngộ độc làm 49 người bị ngộ độc, 28 người phải cấp cứu tại Bệnh viện, không có trường hợp tử vong.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao
Trong 9 tháng năm 2018, các hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức vào dịp: Kỷ niệm 88 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mừng Xuân Mậu Tuất – 2018; Kỷ niệm 111 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; 50 năm cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968; 46 năm ngày giải phóng Quảng Trị; 43 năm ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước; 128 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 50 năm Ngày chiến thắng Khe Sanh - Giải phóng Hướng Hóa; 71 năm ngày Thương binh, Liệt sỹ; 73 năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9; 45 năm ngày Lãnh tụ Cuba Fidel Castro đến thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam…Tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác khánh tiết, thông tin, tuyên truyền; phối hợp với các địa phương trong toàn tỉnh tiến hành trang trí tại các trục đường trung tâm; tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí. Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Quảng Trị xây dựng chuyên mục phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; thường xuyên cập nhật thông tin, phản ánh kịp thời các hoạt động của các địa phương trong tỉnh.
Các hoạt động văn hoá, thể thao được tổ chức hết sức chu đáo với nhiều hình thức phong phú và đa dạng: Hội chợ Hoa xuân, Chương trình nghệ thuật đặc biệt, bắn pháo hoa đón giao thừa Mừng Xuân Mậu Tuất – 2018; Chương trình giao lưu nghệ thuật “Khúc ca hòa bình” – Kỷ niệm 45 năm ngày Hiệp định Paris được ký kết; Lễ hội "Thống nhất non sông – 2018” với các hoạt động chính: Lễ Thượng cờ, Hội Bài chòi, Giải đua thuyền truyền thống; Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày chiến thắng Khe Sanh - Giải phóng Hướng Hóa; Lễ tôn vinh Nghệ thuật Bài chòi Trung bộ Việt Nam được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; Lễ kỷ niệm 45 năm Chủ tịch Cu Ba Fidel Castro thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam...
Trong 9 tháng năm 2018, Đoàn nghệ thuật tỉnh đã tổ chức 50 buổi biểu diễn phục vụ thu hút hơn 25.000 lượt người xem; Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng tỉnh đã tổ chức khoảng 280 buổi chiếu phim thu hút hơn 86.800 lượt người xem.
Thực hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đến nay, toàn tỉnh có: 148.908/164.458 gia đình đạt gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 90,5%; 1039/1073 làng, bản, khu phố được công nhận làng, bản, khu phố văn hóa, đạt tỷ lệ 96,8%; 974/1045 cơ quan, đơn vị được công nhận đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 93,2%...
Thể thao quần chúng được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Tính đến nay, tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 31,1%; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 25,9%; có 775 câu lạc bộ và điểm tập TDTT trên địa bàn tỉnh, có 02 liên đoàn và hiệp hội. Công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học được chú trọng, chất lượng phong trào được nâng lên rõ rệt…
Tổ chức thành công các giải thể thao như: Giải Bóng chuyền, Cầu lông Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh; Giải Bóng đá nam U11 Cúp QRTV Quảng Trị lần thứ IV, năm 2018; Hội thi Thể thao học đường tỉnh Quảng Trị năm 2018; Giải Bóng đá Báo Quảng Trị năm 2018 - Cúp Trường Sơn, Giải Bóng đá Hội khỏe Phù Đổng học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở toàn quốc Cúp Milo năm 2018; Giải Võ cổ truyền trẻ tỉnh Quảng Trị năm 2018...
Tham gia Hội thi Thể thao Người khuyết tật toàn quốc năm 2018 tại TP Đà Nẵng, xếp thứ 4 trên tổng số 30 đoàn tham gia với 26 huy chương các loại (09 HCV, 12 HCB, 05 HCĐ).
Thể thao thành tích cao được quan tâm. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh là 107 VĐV (30 VĐV tuyến tỉnh, 10 VĐV tuyến trẻ và 67 VĐV tuyến năng khiếu).
Chín tháng năm 2018, các đội tuyển đã tham gia thi đấu 20 giải thể thao toàn quốc và 03 giải quốc tế; đạt 59 huy chương các loại, gồm: 16 HCV, 13 HCB và 30 HCĐ. Đặc biệt, môn Rowing tham gia giải Quốc tế vô địch Châu Á và Vô địch Cúp Châu Á đạt: 06 HCV, 01 HCB; Đại hội Thể thao Châu Á (ASIAD 2018) đạt 01 HCV, 01 HCB góp phần cùng đoàn thể thao VN đem vinh quang về cho Tổ quốc.
Tổ chức thành công Đại hội TDTT tỉnh Quảng Trị lần thứ VII, năm 2018; Kết quả Khối các huyện, thị xã, thành phố: Thành phố Đông Hà đạt giải Nhất toàn đoàn, huyện Vĩnh Linh đạt giải Nhì toàn đoàn, huyện Triệu Phong đạt giải Ba toàn đoàn; Khối các sở, ban, ngành: Công an tỉnh đạt giải Nhất toàn đoàn.
6. Tai nạn giao thông
Tháng 9/2018 (Từ 16/8 đến 15/9/2018), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, làm chết 11 người, bị thương 13 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 50% (+06 vụ), số người chết tăng 57,1% (+04 người), số người bị thương giảm 7,1% (-01 người).
Quý III/2018 (Từ 16/6 đến 15/9/2018), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 51 vụ tai nạn giao thông, làm chết 30 người, bị thương 40 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 41,67% (+05 vụ), số người chết tăng 66,67% (+12 người), số người bị thương giảm 2,44% (-01 người).
Tính chung 9 tháng năm 2018 (Từ 16/12/2017 đến 15/9/2018) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 148 vụ tai nạn giao thông, làm chết 98 người, bị thương 104 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 3,9% (-06 vụ), số người chết tăng 19,51% (+16 người), số người bị thương giảm 27,27% (-39 người).
Trong số vụ tai nạn giao thông xảy ra trong 9 tháng năm 2018; đường bộ xảy ra 145 vụ, làm chết 95 người, bị thương 104 người; đường sắt xảy ra 3 vụ, làm chết 3 người.
7. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
7.1. Tình hình cháy nổ
Quán triệt nguyên tắc cơ bản của công tác PCCC là “Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia PCCC”, Tỉnh đã tập trung chỉ đạo những đơn vị liên quan tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, kiến thức về công tác PCCC và cứu nạn, cứu hộ (CNCH) trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp cũng đã quan tâm, đầu tư trang bị phương tiện PCCC theo quy định; chuẩn bị điều kiện cần thiết phục vụ công tác PCCC… Phong trào toàn dân tham gia PCCC và CNCH thường xuyên được phát động, ngày càng có chiều sâu, các mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào PCCC không ngừng phát triển. Công tác thường trực ứng cứu và chữa cháy kịp thời, hiệu quả; 100% các vụ cháy, nổ xảy ra trên địa bàn đều được tổ chức cứu chữa kịp thời.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 06 vụ cháy; làm 02 người bị thương; giá trị tài sản thiệt hại 35 triệu đồng.
Tính chung 9 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra 56 vụ cháy, tăng 11 vụ so với cùng kỳ năm trước; làm 04 người bị thương; tổng giá trị tài sản thiệt hại 4.163,58 triệu đồng
7.2. Bảo vệ môi trường
Trong 9 tháng năm 2018, Ngày môi trường thế giới 05/6 là sự kiện thường niên được Việt Nam cũng như tỉnh Quảng Trị hưởng ứng từ nhiều năm nay. Hoạt động ra quân làm sạch biển đã thể hiện được ý thức, trách nhiệm của cộng đồng dân cư tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu bằng những việc làm thiết thực, ý nghĩa, góp phần “Giải quyết ô nhiễm nhựa và nilon”. Hưởng ứng chiến dịch “Làm cho thế giới sạch hơn” năm 2018, UBND tỉnh yêu cầu đẩy mạnh các phong trào BVMT, đặc biệt là khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh bằng các hành động cụ thể với phương châm hiệu quả, thiết thực, đảm bảo phong trào được duy trì thường xuyên, tạo bước chuyển biến mới trong công tác BVMT…
Ngoài ra, công tác kiểm tra, thanh tra được tăng cường; xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội.
Trong tháng 9 đã phát hiện và xử lý 01 vụ vi phạm về môi trường do xã nước thải không đúng với luật quy chuẩn môi trường; số tiền xử phạt 60 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm đến nay đã phát hiện và xử lý 06 vụ vi phạm môi trường, tăng 05 vụ so với cùng kỳ năm 2017; số tiền xử phạt 197 triệu đồng.
8. Tình hình thiệt hại do thiên tai
Trong 9 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh không có thiên tai, lũ lụt lớn xảy ra; nhưng hiện tượng thời tiết cực đoan như: lốc xoáy đã làm thiệt hại về người và tài sản của người dân một số địa bàn trong tỉnh.
Đầu tháng 3/2018 lốc xoáy đã xảy ra tại huyện Hải Lăng làm 01 người bị thương, 69 nhà bị tốc mái, trên 07 ha cây lâm nghiệp bị gảy đổ…Giá trị thiệt hại ước tính 436 triệu đồng.
Ngay sau khi thiên tai xảy ra, Chính quyền địa phương đã về địa bàn xảy ra lốc xoáy kiểm tra, chỉ đạo công tác hổ trợ và thăm hỏi động viên những gia đình bị ảnh hưởng.
Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2018 tỉnh Quảng Trị./.
► Số liệu KT-XH 9 tháng năm 2018
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ