1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
1.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
a1. Tiến độ sản xuất vụ Mùa năm 2018
Vụ Mùa ở Quảng Trị, chỉ gieo lúa nương rẩy, thuộc hai huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông, giống lúa rẫy địa phương lâu năm chất lượng bị thoái hóa; hình thức canh tác không đầu tư thâm canh, không chăm sóc, không phân bón, không được tưới tiêu; đất gieo trồng chủ yếu nằm ở đồi núi sườn dốc cao nên hàng năm luôn bị rửa trôi bạc màu, do đó kết quả thu hoạch cho năng suất, sản lượng rất thấp. Diện tích lúa Mùa năm 2018 gieo trồng 2.031,6 ha, giảm 0,72% (-14,7 ha) so với năm 2017.
a2.Sản xuất vụ Hè Thu năm 2018
Sản xuất cây hàng năm vụ Hè Thu năm 2018 có nhiều thuận lợi; đầu vụ hạn hán có xảy ra cục bộ, không đáng kể; từ tháng 7 đến nay thời tiết khá thuận lợi, các tuần trong các tháng đều có mưa nên đã bổ sung nguồn nước tưới khá tốt; các hồ đập thủy lợi nguồn nước đảm bảo. Hiện nay, cây lúa đang trổ bông, một số vùng đã đỏ đuôi, đến cuối tháng có thể cho thu hoạch.
Tình hình sâu bệnh gây hại trên cây lúa ít phát sinh, tỷ lệ gây hại không đáng kể. Ngành chức năng từ tỉnh đến cơ sở đã kịp thời chỉ đạo tiến hành phun thuốc, hạn chế việc lây lan trên diện rộng.
Dự ước kết quả sản xuất vụ Hè Thu năm 2018.
Về diện tích: Tính đến ngày 15/8 toàn tỉnh đã gieo cấy được 22.681,8 ha lúa vụ Hè Thu tăng 0,79% (+178,4 ha) so với cùng kỳ năm trước; Ngô gieo trồng 1.022,2 ha, giảm 7,05% (-77,5 ha); khoai lang 509 ha, giảm 15,77% (-95,3 ha); cây sắn (cả năm) 11.848,4 ha, giảm 4,63% (-446,6 ha); cây chất bột khác 658,2 ha, giảm 9,33% (-67,7 ha); lạc 310,4 ha, giảm 20,1% (-78,1 ha); rau các loại 1.584,2 ha, giảm 3,48% (-57,1 ha); đậu các loại 1.143,4 ha, giảm 3,36% (-39,7 ha)…
Diện tích lúa Hè Thu tăng do năm nay đủ nguồn nước tưới nên một số diện tích năm trước bỏ hoang hoặc trồng màu được chuyển sang trồng lúa; một số đơn vị thực hiện dồn điền, đổi thửa đã làm tăng diện tích. Diện tích trồng sắn giảm do UBND huyện Hướng Hóa nơi có diện tích trồng sắn lớn nhất của tỉnh đã khuyến khích và hổ trợ người dân chuyển đổi một số diện tích trồng sắn bạc màu, kém hiệu quả sang trồng cao su và một số loại cây trồng khác.Diện tích các loại cây trồng khác giảm do giá đầu vào tăng nhưng giá bán sản phẩm giảm, kém hiệu quả nên bà con chuyển sang gieo trồng các loại cây khác.
Về năng suất: năng suất lúa vụ Hè Thu năm 2018 ước đạt 50 tạ/ha, tăng 7,7 tạ/ha so với vụ Hè Thu năm 2017; cây ngô năng suất ước đạt 23 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha; cây khoai lang năng suất ước đạt 73,3 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; cây sắn (cả năm) năng suất ước đạt 168,8 tạ/ha, tăng 0,1tạ/ha; cây chất bột khác năng suất ước đạt 111,9 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; cây lạc năng suất ước đạt 16,3 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha; rau các loại năng suất ước đạt 99 tạ/ha, tăng 2 tạ/ha; đậu các loại năng suất ước đạt 10 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha…
Năng suất lúa tăng mạnh chủ yếu do năm nay thời tiết khá thuận lợi; vụ Hè Thu năm 2017 mất mùa do ảnh hưởng của cơn bão số 4 nên năng suất lúa đạt thấp.
Về sản lượng: Sản lượng lúa vụ Hè Thu ước đạt 113.450,1 tấn, tăng 19,2% (+18.272,8 tấn) so với vụ Hè Thu năm 2017; sản lượng ngô ước đạt 2.355 tấn, giảm 7,17% (-181,9 tấn); sản lượng khoai lang ước đạt 3.732,9 tấn, giảm 13,56% (-585,4 tấn); sản lượng sắn (cả năm) ước đạt 199.992,6 tấn, giảm 3,57% (-7.403,1 tấn); sản lượng cây chất bột khác ước đạt 7.366,1 tấn, giảm 9,19% (-745,1 tấn); sản lượng lạc ước đạt 506,7 tấn, giảm 17,57% (-108 tấn); sản lượng rau các loại ước đạt 15.690 tấn, giảm 1,42% (-226,6 tấn); sản lượng đậu các loại ước đạt 1.138,1 tấn, giảm 7,06% (-86,4 tấn)…
b. Chăn nuôi
Đến 01/8/2018, đàn trâu có 25.906 con, giảm 3,71% so với cùng thời điểm năm 2017; đàn bò có 66.295 con, giảm 2,38%; đàn lợn thịt có 174.700 con, giảm 9,44%; đàn gia cầm có 2.670 nghìn con, tăng 0,19%; trong đó: đàn gà 1.998 nghìn con, tăng 0,35%. Đàn lợn thịt giảm mạnh chủ yếu là do giá thịt lợn hơi giảm sâu trong năm 2017 nên người chăn nuôi giảm đàn hoặc bỏ chuồng, đến nay đàn lợn thịt vẫn chưa thể phục hồi. Hiện nay, giá bán thịt lợn hơi đã tăng cao trở lại nhưng tâm lý người chăn nuôi vẫn còn thận trọng; hơn nữa, hiện nay nguồn giống khan hiếm, giá giống khá cao nên đầu tư tăng đàn còn chậm.
Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 8/2018 đạt 3.219,8 tấn, giảm 9,05% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 2.280 tấn, giảm 12,88%. Tính chung 8 tháng năm 2018, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 27.536,2 tấn, giảm 4,64% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó: thịt lợn hơi 20.100 tấn, giảm 8,13%.
Tình hình dịch bệnh: Trong tháng 8 dịch tai xanh ở lợn, cúm gia cầm, LMLM không xảy ra. Tính chung từ đầu năm đến nay tại huyện Hải Lăng và TX Quảng Trị có 18 con trâu, bò mắc bệnh Tụ huyết trùng (chết 02 con), 93 con lợn mắc bệnh Tụ huyết trùng (chết 04 con), 275 con lợn mắc bệnh tiêu chảy (chết 05 con), 117 con lợn mắc bệnh Phó thương hàn (chết 117 con), 166 con lợn bị E.coli sưng phù đầu (chết 41 con).
Tình hình tiêm phòng: Đến ngày 10/8/2018, việc triển khai tiêm phòng vụ Xuân năm 2018 kết thúc, vắc xin THT trâu bò được 45.408 con; vắc xin Kép lợn được 61.240 con; vắc xin Dại chó được 38.845 con; vắc xin LMLM trâu bò được 46.075 con; vắc xin LMLM lợn được 1.700 con (Tiêm bao vây chống dịch); vắc xin cúm gia cầm được 275.720 lượt con.
1.2. Lâm nghiệp
Ước tính sản lượng gỗ khai thác tháng 8/2018 đạt 92.500 m3, tăng 6,54% so với tháng cùng kỳ năm trước; khai thác củi đạt 29.137 ster, giảm 3,51%. Tính chung 8 tháng năm 2018, số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước tính đạt 1.001 nghìn cây, tăng 3,20% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 352.842 m3, tăng 7,68%; khai thác củi đạt 125.268 ste, giảm 2,37%. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có 22.158,7 ha rừng được tổ chức quốc tế cấp chứng chỉ FSC; do chất lượng rừng trồng được nâng lên với các giống cây lâm nghiệp cho năng suất cao nên sản lượng ngày càng tăng. Những năm gần đây nhu cầu gỗ nguyên liệu cho các nhà máy gỗ ép, nhà máy dăm, cơ sở chế biến gỗ ghép thanh, sản xuất hàng mộc dân dụng và xuất khẩu sang Lào tăng, nên sản lượng gỗ khai thác tăng so với cùng kỳ năm 2017.
Thiệt hại rừng: Trong tháng không có cháy rừng xảy ra. Tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 5 vụ cháy rừng (huyện Vĩnh Linh, Hải Lăng và TP Đông Hà), diện tích rừng bị cháy 14,05 ha (thiệt hại 12,58 ha), ước tính giá trị thiệt hại 341,5 triệu đồng.
Kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong tháng đã phát hiện và bắt giữ 17 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 21 vụ, lâm sản tịch thu 35,2 m3 gỗ các loại. Tính chung từ đầu năm đến nay, đã phát hiện và bắt giữ 186 vụ vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính 172 vụ; lâm sản tịch thu 251,9 m3 gỗ các loại, 190,2 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
1.3. Thủy sản
Trong tháng, các hộ nuôi tiếp tục thả nuôi tôm thẻ chân trắng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tháng 8/2018 ước tính đạt 45,9 ha, tăng 2% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi tôm 45,9 ha, tăng 2%. Tính chung 8 tháng năm 2018, diện tích nuôi trồng thủy sản ước tính đạt 3.198,3 ha, tăng 2,68% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 2.108,3 ha, tăng 1,07%; nuôi tôm 1.084,9 ha, tăng 5,64%. Diện tích nuôi tôm tăng khá so với cùng kỳ năm trước do năm nay dịch bệnh trên tôm nuôi ít xảy ra.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 8/2018 ước tính đạt 3.635,9 tấn, tăng 1,11% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2018 ước tính đạt 22.308,9 tấn, tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 8/2018 ước tính đạt 644,9 tấn, giảm 0,31% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 282,7 tấn, giảm 1,47%; tôm 362,2 tấn, tăng 0,61%. Tính chung 8 tháng năm 2018, ước tính đạt 4.686,9 tấn, tăng 18,04% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.482,7 tấn, tăng 5,26%; tôm 2.180,2 tấn, tăng 35,67%. Sản lượng tôm nuôi 8 tháng năm 2018 tăng cao do diện tích nuôi tăng, dịch bệnh ít xảy ra nên cho năng suất cao.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 8/2018 ước tính đạt 2.991 tấn, tăng 1,42% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.266 tấn, tăng 1,07%; tôm 31 tấn, giảm 3,12%; thủy sản khác 694 tấn, tăng 2,81%. Tính chung 8 tháng năm 2018, ước tính đạt 17.622 tấn, tăng 0,15% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 14.622 tấn, giảm 2,64%; tôm 289 tấn, tăng 19,42%; thủy sản khác 2.711 tấn, tăng 16,1%.
Tình hình dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: Trong tháng không phát sinh dịch bệnh trên tôm nuôi. Tính chung từ đầu năm đến nay, dịch bệnh tôm nuôi đã xảy ra các huyện, thành phố: Triệu Phong, Gio Linh, Vĩnh Linh, TP Đông Hà với tổng diện tích bị bệnh 39,94 ha. Các loại bệnh xảy ra là bệnh gan tụy cấp tính 30,42 ha và bệnh đốm trắng 9,52 ha.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2018 tăng khá so với tháng cùng kỳ năm trước do có một số sản phẩm chủ yếu sản xuất trong tháng tăng khá cao như: nước hoa quả tăng lực; quần áo; dăm gỗ; ván ép từ gỗ; lốp dùng cho xe máy, xe đạp; gạch bằng xi măng, bê tông; điện sản xuất… tuy nhiên, có một số sản phẩm do thiếu nguyên liệu, khó khăn về thị trường tiêu thụ…nên sản xuất giảm như: tinh bột sắn; bia lon; gỗ cưa hoặc xẻ; tấm lợp Proximăng…làm cho chỉ số sản xuất tăng chậm lại.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2018 ước tính tăng 11,51% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,21%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,93%; sản xuất và phân phối điện tăng 24,56%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 8,85%.
Tính chung 8 tháng năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 9,08% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 12,59%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,36%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,31%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 9,21%.
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: khai thác quặng kim loại tăng 25,15%; sản xuất trang phục tăng 20,41%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 13,87%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 26,49%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 56,19%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 33,90%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,31%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 10,69%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,25%; xuất đồ uống tăng 2,38%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,13%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,56%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 2,69%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai khoáng khác giảm 2,58%; dệt giảm 28,04%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 24,99%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 1,76%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 1,66%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 9,71%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 18,86%.
Một số sản phẩm chủ yếu trong 8 tháng năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: quặng inmenit và tinh quặng inmenit tăng 32,85%; quặng titan và tinh quặng titan tăng 17,86%; thủy hải sản chế biến tăng 33,46%; bộ com lê, quần áo tăng 27,25%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 42,29%; săm dùng cho xe máy, xe đạp tăng 25,92%; điện sản xuất tăng 38,59%. Một số sản phẩm tăng thấp: quặng zircon và tinh quặng zircon tăng 6,16%; nước hoa quả, tăng lực tăng 8,65%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 10,89%; dăm gỗ tăng 12,89%; gạch và gạch khối bằng xi măng, bê tông tăng 8,20%; xi măng tăng 0,42%; điện thương phẩm tăng 7,16%; nước máy tăng 10,69%. Một số sản phẩm giảm: đá xây dựng giảm 4,67%; tinh bột sắn giảm 29,50%; bia lon giảm 7,06%; ván ép giảm 0,54%; dầu nhựa thông giảm 3,53%; phân hóa học giảm 1,51%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 6,48%; tấm lợp proximăng giảm 25,43%...
3. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 8/2018 tăng khá cao so với tháng cùng kỳ năm trước do tình hình giải ngân vốn có nhiều cải thiện nên tiến độ thi công các công trình/dự án được đẩy nhanh.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 8/2018 ước tính đạt 289,5 tỷ đồng; bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 240,1 tỷ đồng, vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 41,1 tỷ đồng, vốn ngân sách nhà nước cấp xã 8,3 tỷ đồng, tăng 73,28% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2018, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 1.579,78 tỷ đồng, bằng 65,61% kế hoạch năm 2018 và tăng 48,30% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước tính đạt 1.296,99 tỷ đồng, bằng 65,63% kế hoạch và tăng 43,45%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước tính đạt 233,47 tỷ đồng, bằng 65,24% kế hoạch và tăng 86,76%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước tính đạt 49,31 tỷ đồng, bằng 66,63% kế hoạch và tăng 36,58%.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước 8 tháng năm 2018 tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Tình hình giải ngân vốn có cải thiện nhưng vẫn chưa bảo đảm kế hoạch đề ra.
Trong tháng, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức lễ khởi công xây dựng công trình đường nối khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị đến cảng Cửa Việt, với tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng, công trình hoàn thành sẽ tạo diện mạo mới, động lực mới trong xúc tiến, kêu gọi, thu hút đầu tư tại địa phương.
Trong 8 tháng năm 2018 không thu hút được dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nào. Vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI tháng 8/2018 ước tính đạt 347 nghìn USD, tăng 6,46% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng năm 2018, vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI ước tính đạt 2.374,74 nghìn USD, giảm 5,73% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện 8 tháng năm 2018 của các doanh nghiệp FDI giảm do không có dự án FDI đầu tư mới, hầu hết các doanh nghiệp FDI đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh nên tình hình đầu tư chững lại.
Tiến độ giải ngân vốn: đến 31/7/2018, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 1.202,42 tỷ đồng, đạt 33,01% kế hoạch năm 2018; Trong đó: nguồn vốn địa phương quản lý thực hiện 933,48 tỷ đồng, đạt 30,32% kế hoạch năm.
4. Thương mại và dịch vụ
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 8/2018, thị trường bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh diễn biến bình thường; hàng hóa phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Một số nhóm hàng hóa phục vụ cho năm học mới như: hàng may mặc; vật phẩm văn hóa, giáo dục do nhu cầu tăng nên doanh thu tăng; nhóm xăng dầu giá bán điều chỉnh tăng nên doanh thu tăng…
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8/2018 ước tính đạt 2.296,97 tỷ đồng, tăng 0,99% so với tháng trước và tăng 10,41% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.933,66 tỷ đồng, tăng 1,29% so với tháng trước và tăng 11,03% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú đạt 8,62 tỷ đồng, giảm 2,29% và tăng 6,63%; doanh thu ăn uống đạt 265,83 tỷ đồng, giảm 0,67% và tăng 7,55%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,34 tỷ đồng, giảm 1,11% và tăng 7,42%; doanh thu dịch vụ khác đạt 85,52 tỷ đồng, giảm 0,01% và tăng 6,29%.
Tính chung 8 tháng năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 18.034,82 tỷ đồng, tăng 9,97% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 15.341,86 tỷ đồng, chiếm 85,07% tổng mức và tăng 10,17% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá so với cùng kỳ năm trước: lương thực, thực phẩm tăng 10,78%; hàng may mặc tăng 11,02%; gỗ và vật liêu xây dựng tăng 10,21%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú ước tính đạt 59,50 tỷ đồng, chiếm 0,33% tổng mức và tăng 8,53% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ ăn uống ước tính đạt 1.915,66 tỷ đồng, chiếm 10,62% tổng mức và tăng 9,09% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 24,34 tỷ đồng, chiếm 0,13% tổng mức và tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 693,46 tỷ đồng, chiếm 3,85% tổng mức và tăng 8,18% so với cùng kỳ năm trước.
4.2. Hoạt động vận tải
Tháng 8/2018, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng… nhập học nên vận tải hành khách tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng so với tháng trước và tháng cùng kỳ năm trước; riêng vận tải hàng hóa tương đối ổn định.
Doanh thu vận tải tháng 8/2018 ước tính đạt 121,22 tỷ đồng, tăng 5,66% so với tháng trước và tăng 8,94% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng doanh thu vận tải, doanh thu vận tải hành khách đạt 41,68 tỷ đồng, tăng 5,05% và tăng 12,85%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 77,04 tỷ đồng, tăng 6,01% và tăng 6,02%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 2,50 tỷ đồng, tăng 5,12% và tăng 49,65%. Tính chung 8 tháng năm 2018, doanh thu vận tải ước tính đạt 868,04 tỷ đồng, tăng 7,57% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 323,05 tỷ đồng, tăng 8,52%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 526,43 tỷ đồng, tăng 6,12%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 18,57 tỷ đồng, tăng 41,19%.
Số lượt hành khách vận chuyển tháng 8/2018 ước tính đạt 517 nghìn HK, tăng 3,58% so với tháng trước và tăng 4,72% so với tháng cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển đạt 53,33 triệu HK.km, tăng 2,55% so với tháng trước và tăng 8,96% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2018, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 4.546,41 nghìn HK, tăng 2,14% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 430,21 triệu HK.km, tăng 5,08%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 8/2018 ước tính đạt 803,28 nghìn tấn, tăng 3,60% so với tháng trước và tăng 3% so với tháng cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt 56,23 triệu tấn.km, tăng 5,11% so với tháng trước và tăng 2,81% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2018, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 5.829,52 nghìn tấn, tăng 2,33% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt 377,40 triệu tấn.km, tăng 3,97%.
4.3.Khách lưu trú và du lịch lữ hành
Tháng 8/2018, thời tiết bước vào mùa mưa; sau dịp Kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh, Liệt sỹ khách vãng lai đến Quảng Trị giảm sút nên số ngày khách do các đơn vị lưu trú và du lịch lữ hành phục vụ có giảm.
Số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ tháng 8/2018 ước tính đạt 39.480 lượt, tăng 1,48% so với tháng trước và tăng 7,47% so với tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ đạt 36.788 ngày khách, giảm 0,18% và tăng 7,99%, lượt khách du lịch theo tour đạt 1.634 lượt, giảm 1,51% và tăng 8,34%, ngày khách du lịch theo tour đạt 4.661 ngày khách, giảm 1,02% và tăng 8,45%.
Tính chung 8 tháng năm 2018, số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước tính đạt 291.919 lượt, tăng 10,05% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ đạt 289.161 ngày khách, tăng 9,14%; lượt khách du lịch theo tour đạt 13.028 lượt, tăng 8,45%; ngày khách du lịch theo tour đạt 33.791 ngày khách, tăng 8,64%.
5. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2018 chỉ tăng nhẹ so với tháng trước; chủ yếu do trong tháng giá dầu điều chỉnh tăng 2 đợt nên bình quân giá xăng dầu tháng này tăng 0,21% so với tháng trước.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2018 tăng 0,14% so với tháng trước; tăng 1,29% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,41% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2018, tăng 2,42% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,09% (lương thực tăng 1,59%, thực phẩm giảm 3,81%, ăn uống ngoài gia đình tăng 2,73%); đồ uống và thuốc lá giảm 0,05%; bưu chính viễn thông giảm 1,01%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,44%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,36%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,37%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,20%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,16%; giao thông tăng 5,91%; giáo dục tăng 22,95%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,94%.
Chỉ số giá vàng tháng 8/2018 giảm 1,59% so với tháng trước; giảm 0,89% so với tháng 12 năm trước và tăng 0,41% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 8 tháng năm 2018 tăng 5,26% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2018 tăng 1,19% so với tháng trước; tăng 2,43% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,37% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 8 tháng năm 2018 tăng 0,60% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
6. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến ngày 18/8/2018 đạt 1.543,1 tỷ đồng, bằng 59,42% dự toán địa phương và tăng 13,13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1.338,94 tỷ đồng, bằng 58,34% dự toán và tăng 11,03%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 189,16 tỷ đồng, bằng 62,63% dự toán và tăng 19,65%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: thu từ doanh nghiệp nhà nước 152,52 tỷ đồng, tăng 16,23% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 402,54 tỷ đồng, tăng 18,24%; lệ phí trước bạ 81,44 tỷ đồng, tăng 47,77%; thuế thu nhập cá nhân 48,44 đồng, tăng 16,20%; thuế bảo vệ môi trường 110,24 tỷ đồng, giảm 35,61%; thu tiền sử dụng đất 352,01 tỷ đồng, tăng 8,81%...
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/8/2018 đạt 4.016 tỷ đồng, bằng 53% dự toán địa phương và tăng 19,35% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.210,17 tỷ đồng, bằng 144,27% dự toán và tăng 45,72%; chi thường xuyên 2.739,38 tỷ đồng, bằng 61,61% dự toán và tăng 11%. Trong tổng chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.170,46 tỷ đồng, tăng 9,35% so với cùng kỳ năm trước; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 272,89 tỷ đồng, tăng 37,16%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 153,10 tỷ đồng, tăng 3,9%; chi sự nghiệp kinh tế 240,75 tỷ đồng, tăng 30,71%; chi quản lý hành chính 664,54 tỷ đồng, tăng 2,75%...
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Thiếu đói trong nông dân
Tình hình kinh tế - xã hội trong tháng ổn định; không có thiên tai, dịch bệnh lớn nên thiếu đói trong nông dân không xảy ra.
7.2. An sinh xã hội
Nhân dịp Kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, có 26.584 lượt người có công và thân nhân được nhận quà Chủ tịch nước với tổng kinh phí trên 5.412,2 triệu đồng; Lãnh đạo tỉnh thăm và tặng quà cho các gia đình chính sách tiêu biểu 18 suất quà với kinh phí 21,6 triệu đồng.
Các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân trao 6.002 suất quà với kinh phí 2.937,885 triệu đồng cho các đối tượng người có công với cách mạng.
Đã tổ chức khởi công xây dựng một số công trình nhà bia, đài tưởng niệm; hỗ trợ xây dựng 8 nhà tình nghĩa đối với người có công với cách mạng với kinh phí 380 triệu đồng.
Tặng 56 sổ tiết kiệm cho người có công với cách mạng; trong đó: 02 sổ tiết kiệm trị giá 10 triệu/sổ và 54 sổ tiết kiểm trị giá 3 triệu đồng/sổ.
Tổ chức lễ thắp nến tri ân các Anh hùng liệt sỹ và Chương trình nghệ thuật “Vang mãi bản hùng ca Đường 9” tại Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Đường 9. Tại chương trình, Ban tổ chức đã tiến hành trao tặng 60 suất quà cho gia đình và học sinh con em gia đình chính sách (1 triệu đồng/suất); 5 sổ tiết kiệm (10 triệu đồng/sổ); 5 căn nhà tình nghĩa (70 triệu/căn) cho các hộ gia đình chính sách, có công với cách mạng. Ngoài ra Ban Tổ chức chương trình phối hợp với các cơ quan đơn vị trong và ngoài quân đội tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội như: tổ chức khám, phát thuốc miễn phí cho 500 gia đình chính sách, người dân có hoàn cảnh khó khăn tại huyện Hải Lăng; tổ chức thăm, tặng quà cho 40 gia đình chính sách và 20 học sinh là con em gia đình chính sách gặp hoàn cảnh khó khăn tại huyện Đakrông; thăm, tặng quà cho 4 gia đình chính sách trên địa bàn TP. Đông Hà, trị giá 2 triệu đồng/suất… Tổng trị giá của đợt tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội lần này 765 triệu đồng.
7.3. Giáo dục - đào tạo
Tính đến 20/6/2018, toàn tỉnh có 280 trường đạt chuẩn quốc gia (tăng 35 trường so với năm học 2016-2017); trong đó mầm non 89 trường, chiếm 52,66% trong tổng số trường mầm non; tiểu học 120 trường, chiếm 77,92%; trung học cơ sở 62 trường, chiếm 47,69%; trung học phổ thông 9 trường, chiếm 29,03%
Kết quả năm học 2017-2018: chất lượng giáo dục đại trà có bước phát triển mới. Cấp tiểu học có 57.334 học sinh, trong đó số học sinh hoàn thành chương trình lớp học là 56.394 em, chiếm 98,36% (+0,05% so với năm học 2016 - 2017); số học sinh chưa hoàn thành chương trình là 758 em, chiếm 1,32% (-0,37%); 182 học sinh không đánh giá, xếp loại. Cấp trung học cơ sở có 42.383 học sinh, trong đó giỏi chiếm 23,08% (+0,58% so với năm học 2016-2017), khá 38,24% (+0,62%), trung bình 35,58% (-1,02%), yếu 2,58% (-0,57%), kém 0,08% (-0,02%), 190 học sinh không xếp loại. Trung học phổ thông có 22.631 học sinh, trong đó giỏi chiếm 11,7% (-0,08% so với năm học 2016-2017), khá 50,85% (+0,81%), trung bình 33,12% (-0,78%), yếu 3,97% (-0,06%), kém 0,37% (+0,15%).
Kỳ thi học sinh giỏi văn hoá THPT cấp quốc gia năm 2018, tỉnh Quảng Trị đạt 16 giải (01 giải nhất, 06 giải nhì, 03 giải ba và 06 giải khuyến khích).
Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT năm 2018 tại Quảng Trị đạt 94,85% (- 0,57% so với năm học trước).
7.4. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
a. Tình hình dịch bệnh
Tỉnh đã chủ động triển khai các chiến dịch vệ sinh môi trường diệt lăng quăng/bọ gậy và phun hoá chất diệt muỗi chủ động phòng chống dịch sốt xuất huyết.
Tháng 8/2018, trên địa bàn tỉnh có 841 trường hợp mắc bệnh cúm, 27 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 68 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 24 trường hợp mắc bệnh quai bị, 27 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 200 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 17 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut.
Tính chung 8 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh có 7.170 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 17,96% so với cùng kỳ năm trước; 218 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 18,05%; 414 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, bằng cùng kỳ năm trước; 201 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 26,37%; 486 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 89,84%; 1167 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 5,66%; 73 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 47,86%. Không có trường hợp tử vong do dịch bệnh.
b.Tình hình nhiễm HIV/AIDS
Ngành Y tế tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan, các đoàn thể tổ chức, giám sát hoạt động ở các cấp; đẩy mạnh công tác truyền thông bằng nhiều hình thức nhằm giúp công tác phòng, chống HIV/AIDS thuận lợi, hiệu quả hơn. Hướng tới mục tiêu ba không: không còn người nhiễm mới HIV, không còn người tử vong do AIDS và không còn kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS.
Trong tháng phát hiện thêm 01 trường hợp nhiễm HIV tại TP Đông Hà. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 220 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ); trong đó: có 65 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 95 người.
c.Tình hình ngộ độc thực phẩm
Tỉnh đã tổ chức đợt kiểm tra liên ngành đối với các cơ sở sản xuất, sơ chế, chế biến, lưu thông, buôn bán thực phẩm tươi sống, đặc biệt là các cơ sở giết mổ, cơ sở sơ chế, chế biến, cung ứng rau, thịt, thủy sản, cơ sở sản xuất, kinh doanh rượu…
Trong tháng 8 và 8 tháng năm 2018, đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn huyện Gio Linh làm 05 người bị ngộ độc, 04 người phải vào bệnh viện.
7.5. Hoạt động văn hóa, thể thao
Tổ chức Kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh liệt sỹ (27/7/1947 – 27/7/2018) với các hoạt động lớn như: Lễ thắp nến tri ân các Anh hùng liệt sỹ và Chương trình nghệ thuật “Vang mãi bản hùng ca Đường 9” tại Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Đường 9; Lễ thả hoa đăng trên sông Thạch Hãn; tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống cho đối tượng chính sách cùng nhiều hoạt động khác…
Tổ chức Hội chợ Công Thương khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Nhịp cầu Xuyên Á - Quảng Trị 2018.
Duy trì tập luyện thường xuyên các lớp Năng khiếu, đội tuyển Tỉnh và đội tuyển Trẻ. Tổng số vận động viên (VĐV) được đào tạo tại Trung tâm là 113 VĐV; trong đó: 34 VĐV tuyến Tỉnh, 18 VĐV tuyến Trẻ và 61 VĐV tuyến Năng khiếu.
Trong tháng tham gia Giải Điền kinh quốc tế TP Hồ Chí Minh mở rộng đạt 01 HCĐ; Giải vô địch cử tạ trẻ ở Hải Phòng đạt 01HCB, 02HCĐ; Giải cúp các Câu lạc bộ mạnh Karatedo ở Gia Lai đạt 0HCĐ; Giải vô địch điền kinh trẻ ở TP Hồ Chí Minh đạt 01HCB, 01HCĐ; Giải Câu lạc bộ bơi khu vực 1 ở Bắc Ninh đạt 08HCĐ.
7.6. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường
a. Tình hình cháy, nổ
Tỉnh đã thành lập các Đoàn liên ngành kiểm tra điều kiện an toàn PCCC đối với cơ sở trọng điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa ở địa phương. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về PCCC; tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động đối với những trường hợp sai phạm nghiêm trọng.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 05 vụ cháy, giảm 05 vụ so với tháng cùng kỳ năm trước; nguyên nhân do chập điện, sơ suất trong sử dụng lửa. Tổng giá trị thiệt hại 05 triệu đồng.
Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 50 vụ cháy, tăng 08 vụ so với cùng kỳ năm trước; làm 02 người bị thương. Tổng giá trị thiệt hại 4.128,58 triệu đồng.
b. Bảo vệ môi trường
Hiện nay công tác tuyên truyền về môi trường được đặc biệt quan tâm, tỉnh tiếp tục vận động nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, phân loại và thu gom rác thải tại nguồn, giảm việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy; chủ động cung cấp thông tin, phát huy vai trò của báo chí trong công tác bảo vệ môi trường…
Trong tháng 8/2018 phát hiện và xử lý 02 vụ vi phạm môi trường xảy ra, số tiền xử phạt 03 triệu đồng. Tính chung 8 tháng năm 2018, phát hiện và xử lý 05 vụ vi phạm môi trường xảy ra, tăng 04 vụ so với cùng kỳ năm trước; số tiền xử phạt 137 triệu đồng.
7.7. Tình hình thiên tai
Tháng 8/2018, trên địa bàn tỉnh không xảy ra thiên tai.
7.8. Tai nạn giao thông
Từ 16/7 đến 15/8/2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, làm chết 08 người, bị thương 12 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 140% (+07 vụ), số người chết tăng 100% (+04 người), số người bị thương tăng 500% (+10 người).
Tính chung từ 16/12/2017 đến 15/8/2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 130 vụ tai nạn giao thông, làm chết 87 người, bị thương 91 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 8,5% (-12 vụ), số người chết tăng 16% (+12 người), số người bị thương giảm 29,5% (-38 người). Trong tổng số vụ tai nạn giao thông 8 tháng, đường bộ xảy ra 128 vụ, làm chết 85 người, bị thương 91 người; đường sắt xảy ra 02 vụ, làm chết 02 người.
Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2018 tỉnh Quảng Trị./.
► Số liệu KT-XH tháng 8 năm 2018
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ