1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
1.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
a1. Tiến độ sản xuất vụ Đông Xuân năm 2017-2018
Tính đến ngày 15/4/2018, cây lúa gieo cấy 25969,1 ha, bằng 100,84% cùng kỳ năm trước. Hiện nay, cây lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh, đứng cái; một số vùng lúa đã trổ bông. Cây ngô gieo trồng 3090,6 ha, bằng 98,13% cùng kỳ năm trước; khoai lang 1706,3 ha, bằng 90,39%; sắn 9258,2 ha, bằng 95,94%; lạc 3270,6 ha, bằng 94,59%; rau các loại 3565,2, bằng 97,90%; đậu các loại 543,3 ha, bằng 93,93%; hoa các loại 180,1 ha, bằng 552,45%; cây ớt cay 363 ha, bằng 108,1% ...Các loại cây trồng như ngô, khoai lang, lạc, rau các loại, đậu các loại diện tích giảm do đầu vụ Đông Xuân mưa, rét kéo dài, đất ướt không gieo trồng được. Riêng cây sắn, do giá bán không ổn định, huyện Hướng Hóa có chủ trương chuyển qua trồng các loại cây khác cho hiệu quả cao hơn.
a2. Tình hình sâu bệnh trên cây lúa
Chuột: diện tích bị hại 957 ha, trong đó hại nặng 82 ha; tỷ lệ hại phổ biến 5 - 10%, nơi cao 20 - 30%. Bệnh vàng lá sinh lý: diện tích nhiễm 275 ha, trong đó nặng 36 ha; tỉ lệ bệnh phổ biến 10 - 15%, nơi cao 30 - 50%. Bệnh đạo ôn lá: diện tích nhiễm 834 ha, trong đó nặng 56 ha; tỉ lệ bệnh phổ biến 7 - 10%, cao 40 - 70%, cục bộ có cháy chòm. Bệnh đốm sọc vi khuẩn: diện tích nhiễm 656 ha, trong đó nặng 12 ha; tỷ lệ bệnh phổ biến 10 - 20%, nơi cao 30 - 60%. Bệnh bạc lá: diện tích nhiễm 690 ha, trong đó nặng 04 ha; tỉ lệ bệnh phổ biến 10 - 20%, nơi cao 30 - 45%. Bệnh khô vằn: diện tích nhiễm 147 ha, trong đó nặng 29 ha; tỉ lệ bệnh phổ biến 5 - 10%, nơi cao 40 - 50%. Nhìn chung từ đầu vụ sản xuất đến nay, các đối tượng dịch hại trên các loại cây trồng phát sinh gây hại ở mức bình thường so với hàng năm.
b. Chăn nuôi
Ước tính đến 30/4/2018, đàn trâu có 26308 con, giảm 1,23% so với cùng thời điểm năm 2017; đàn bò có 64860 con, giảm 0,97%; đàn lợn thịt có 184700 con, giảm 5,21%; đàn gia cầm có 2571 nghìn con, tăng 3,46%; trong đó: đàn gà 2010 nghìn con, tăng 3,88%. Chăn nuôi lợn tiếp tục gặp khó khăn do sau Tết Nguyên đán giá thịt lợn hơi giảm, người chăn nuôi không có lãi nên quy mô đàn giảm mạnh; chăn nuôi gia cầm phát triển tốt do dịch bệnh được kiểm soát, giá bán ổn định.
Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 4/2018 đạt 3224 tấn, giảm 0,36% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn hơi 2449 tấn, giảm 1,13%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 15508,6 tấn, giảm 0,5%; trong đó: thịt lợn hơi 11694 tấn, giảm 1,32%.
Tình hình dịch bệnh: Trong tháng, phát sinh dịch lở mồm long móng trên đàn gia súc tại 03 huyện Vĩnh Linh; Gio Linh và Hải Lăng. Tính đến ngày 16/4/2018, tổng số gia súc mắc bệnh 66 con (12 con lợn, 54 con bò); tiêu hủy 25 con lợn.
1.2. Lâm nghiệp
Tháng 4/2018, sản lượng gỗ khai thác ước tính đạt 61500 m3, tăng 14,53% so với tháng cùng kỳ năm trước; khai thác củi ước tính đạt 10960 ste, giảm 4,79%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước tính đạt 536,8 nghìn cây, tăng 10,68% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước tính đạt 123470 m3, tăng 10,74%; khai thác củi ước tính đạt 34742 ste, giảm 2,68%. Trong thời gian qua, do chất lượng rừng trồng được nâng cao với các giống cây lâm nghiệp cho năng suất cao; đến nay diện tích cho khai thác có trữ lượng ngày càng tăng, nên sản lượng gỗ tăng nhanh.
Thiệt hại rừng: Trong 4 tháng đầu năm 2018, không có sâu bệnh hại rừng. Công tác bảo vệ rừng được tăng cường nên trong 4 tháng đầu năm không có vụ cháy rừng nào xảy ra.
Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Trong tháng đã phát hiện và bắt giữ 20 vụ vi phạm hành chính; xử lý vi phạm hành chính 24 vụ; lâm sản tịch thu 37,2 m3 gỗ các loại; 5,2 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, đã phát hiện và bắt giữ 78 vụ vi phạm hành chính; xử lý vi phạm hành chính 72 vụ; lâm sản tịch thu 94,14 m3 gỗ các loại; 14,7 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.
1.3. Thủy sản
Trong tháng, tranh thủ thời tiết thuận lợi các hộ nuôi tiếp tục thả giống tôm cho vụ chính trong năm. Diện tích nuôi trồng thủy sản tháng 4/2018 ước tính đạt 537 ha, giảm 18,51% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 411 ha, tăng 2,49%; nuôi tôm 124 ha, giảm 51,94%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, diện tích nuôi trồng thủy sản ước tính đạt 2336 ha, giảm 7,85% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 1994 ha, giảm 3,62%; nuôi tôm 340 ha, giảm 27,04%. Diện tích nuôi tôm giảm do thời tiết trong thời gian qua thay đổi thất thường; gió mùa, nắng nóng đan xen dể làm cho con giống bị chết nên bà con chưa thả nuôi.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 4/2018 ước tính đạt 2601 tấn, tăng 5,54% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 8055,1 tấn, tăng 7,08% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 4/2018 ước tính đạt 454 tấn, tăng 15,96% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 151,5 tấn, tăng 2,02%; tôm 282 tấn, tăng 16,05%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, ước tính đạt 1995,6 tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 925,1 tấn, tăng 3,54%; tôm 1050 tấn, tăng 7,69%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng 4 tháng đầu năm tăng khá do nuôi tôm năm nay dịch bệnh ít xảy ra.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 4/2017 ước tính đạt 2147 tấn, tăng 3,57% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 1651 tấn, tăng 0,3%; tôm 59 tấn, không tăng; thủy sản khác 437 tấn, tăng 18,75%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, ước tính đạt 6059,5 tấn, tăng 7,17% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 4863 tấn, tăng 2,9%; tôm 180,5 tấn, tăng 62,61%; thủy sản khác 1016 tấn, tăng 24,36%. Sản lượng thủy sản khai thác 4 tháng đầu năm tăng khá do năng lực đánh bắt tăng; hơn nữa, trong thời gian qua thời tiết khá thuận lợi cho hoạt động đánh bắt; những tháng đầu năm bà con ngư dân vùng biển Quảng Trị được mùa cá cơm.
2. Sản xuất công nghiệp
Tháng 4/2018, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khá so với tháng trước; tuy nhiên, so với tháng cùng kỳ năm trước tăng chậm do các ngành chức năng tăng cường công tác quản lý nên khai thác cát sỏi giảm; một số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo khó khăn về nguyên liệu đầu vào như: sản xuất tinh bột sắn, sản xuất dăm gỗ, sản xuất dầu thông; sản phẩm bia tiêu thụ chậm nên sản xuất giảm…
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4/2018 ước tính tăng 6,12% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 17,18%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,05%; sản xuất và phân phối điện tăng 2,73%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 6,18%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4/2018 ước tính tăng 7,01% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 1,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,68%; sản xuất và phân phối điện tăng 24,01%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 11,93%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 8,28% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 12,31%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,94%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,82%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 13,13%.
Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: khai thác quặng kim loại tăng 28,92%; sản xuất trang phục tăng 23,47%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 15,29%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 36,73%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 151,03%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 33,97%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,82%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 13,87%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 10,07%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 4,67%; xuất đồ uống tăng 4,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 3,14%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai khoáng khác giảm 7,81%; dệt giảm 23,91%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 26,03%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 12,92%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 0,65%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 11,07%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 15,64%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 22,45%.
Một số sản phẩm chủ yếu trong 4 tháng đầu năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: quặng titan và tinh quặng titan tăng 47,14%; quặng zircon và tinh quặng zircon tăng 38,71%; nước hoa quả, tăng lực tăng 16,91%; bộ com lê, quần áo tăng 23,08%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 46,04%; săm dùng cho xe máy, xe đạp tăng 51,37%; điện sản xuất tăng 18%. Một số sản phẩm tăng thấp: gỗ cưa hoặc xẻ tăng 2,61%; ván ép tăng 10,44%; phân hóa học tăng 6,32%; gạch và gạch khối bằng xi măng, bê tông tăng 6,21%; điện thương phẩm tăng 8,44%; nước máy tăng 13,87%. Một số sản phẩm giảm: quặng inmenit và tinh quặng inmenit giảm 6,78%; đá xây dựng giảm 4,25%; tinh bột sắn giảm 4,97%; bia lon giảm 9,49%; dăm gỗ giảm 18,44%; dầu nhựa thông giảm 18%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 2,97%; bê tông tươi giảm 17,24%; tấm lợp proximăng giảm 28,96%; xi măng giảm 1,9%.
3. Đầu tư
Tháng 4/2018, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tăng khá cao so với tháng trước và tháng cùng kỳ năm trước do tình hình giải ngân vốn được đẩy mạnh nên tiến độ thi công các công trình/dự án được đẩy nhanh.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 4/2018 ước tính đạt 161 tỷ đồng ( bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 128,9 tỷ đồng, vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 26,5 tỷ đồng, vốn ngân sách nhà nước cấp xã 5,6 tỷ đồng), tăng 16,97% so với tháng trước và tăng 24,05% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 506,36 tỷ đồng, bằng 21,03% kế hoạch năm 2018 và tăng 25,51% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước tính đạt 406,43 tỷ đồng, bằng 20,57% kế hoạch và tăng 18,94%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước tính đạt 80,6 tỷ đồng, bằng 22,53% kế hoạch và tăng 69,04%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước tính đạt 19,33 tỷ đồng, bằng 26,13% kế hoạch và tăng 37,44%.
Trong tháng không thu hút được dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nào. Vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI tháng 4/2018 ước tính đạt 285 nghìn USD, tăng 4,64% so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI ước tính đạt 1123,09 nghìn USD, giảm 6,63% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện 4 tháng đầu năm của các doanh nghiệp FDI giảm do từ đầu năm đến nay không có dự án FDI nào được cấp phép, vốn đầu tư thực hiện chủ yếu do các doanh nghiệp FDI đang hoạt động đầu tư bổ sung.
Tiến độ giải ngân vốn: đến 31/3/2018, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 284,05 tỷ đồng, đạt 16,85% kế hoạch năm 2018.
4. Thương mại và dịch vụ
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 4/2018, thị trường bán lẻ hàng hóa diển biến bình thường; chỉ có một số nhóm hàng như: đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình phục vụ cho mùa hè, gỗ và vật liệu xây dựng tăng khá. Thời tiết thuận lợi cho hoạt động du lịch trong dịp Lễ 30/4 và 1/5 nên doanh thu lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tăng khá so với tháng trước và tháng cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2018 ước tính đạt 2232,16 tỷ đồng, tăng 2,45% so với tháng trước và tăng 15,18% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 1879,39 tỷ đồng, tăng 2,01% và tăng 28,52%; doanh thu lưu trú và ăn uống ước tính đạt 259,09 tỷ đồng, tăng 4,22% và tăng 13,48%; doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 3,6 tỷ đồng, tăng 4,99% và tăng 12,99%; doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 90,07 tỷ đồng, tăng 6,71% và tăng 10,46%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 8964,17 tỷ đồng, tăng 11,16% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 7607,40 tỷ đồng, chiếm 84,86% tổng mức và tăng 11,21% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá so với cùng kỳ năm trước: lương thực, thực phẩm tăng 11,54%; hàng may mặc tăng 11,59%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,6%; xăng dầu các loại tăng 13,23%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống 4 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 978,04 tỷ đồng, chiếm 10,91% tổng mức và tăng 11,09% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu du lịch lữ hành 4 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 12,43 tỷ đồng, chiếm 0,14% tổng mức và tăng 10,17% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác 4 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 366,28 tỷ đồng, chiếm 4,09% tổng mức và tăng 10,46% so với cùng kỳ năm trước.
4.2. Hoạt động vận tải
Tháng 4/2018, thời tiết thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng và du lịch lữ hành nên hoạt động vận tải tiếp tục tăng so với tháng trước; riêng hoạt động vận tải hành khách tăng khá cao so với tháng cùng kỳ năm trước.
Doanh thu vận tải tháng 4/2018 ước tính đạt 107,56 tỷ đồng, tăng 5,15% so với tháng trước và tăng 5,21% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng doanh thu vận tải, doanh thu vận tải hành khách ước tính đạt 42,28 tỷ đồng, tăng 3,8% và tăng 11,05%; doanh thu vận tải hàng hóa ước tính đạt 63,12 tỷ đồng, tăng 6,07% và tăng 1,14%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải ước tính đạt 2,14 tỷ đồng, tăng 5,19% và tăng 23,21%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, doanh thu vận tải ước tính đạt 411,16 tỷ đồng, tăng 8,07% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước tính đạt 164,98 tỷ đồng, tăng 11,67%; doanh thu vận tải hàng hóa ước tính đạt 238,31 tỷ đồng, tăng 5,26%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải ước tính đạt 7,87 tỷ đồng, tăng 24,34%.
Vận tải hành khách: số lượt hành khách vận chuyển tháng 4/2018 ước tính đạt 598,76 nghìn HK, tăng 1,61% so với tháng trước và tăng 14,06% so với tháng cùng kỳ năm trước, tất cả đều do vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 57,48 triệu HK.km, tăng 3,82% so với tháng trước và tăng 9,4% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 2517,32 nghìn HK, tăng 3,93% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 223,85 triệu HK.km, tăng 6,21%.
Vận tải hàng hóa: khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 4/2018 ước tính đạt 694,45 nghìn tấn, tăng 2,21% so với tháng trước và tăng 2,1% so với tháng cùng kỳ năm trước; chủ yếu do vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 45,73 triệu tấn.km, tăng 4,66% so với tháng trước và giảm 6,24% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 2678,50 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 165,44 triệu tấn.km, tăng 3,47%.
4.3.Khách du lịch
Tháng 4/2018, bước vào mùa Hè; thời tiết thuận lợi, hoạt động nghỉ dưỡng và tắm biển tại các bãi biển Cửa Việt và Cửa Tùng đã bắt đầu khởi động; nhiều đoàn khách quốc tế và trong nước đã đến Quảng Trị thăm quan các di tích lịch sữ nên số lượt khách do các đơn vị lưu trú và lữ hành phục vụ tăng khá.
Số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ tháng 4/2018 ước tính đạt 37784 lượt, tăng 4,78% so với tháng trước và tăng 11,96% so với tháng cùng kỳ năm trước; tương ứng, số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ (chỉ tính khách ngủ qua đêm) ước tính đạt 42197 ngày khách, tăng 2,87% và tăng 10,34%, lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 1853 lượt, tăng 4,04% và tăng 12,13%, ngày khách du lịch theo tour ước tính đạt 5370 ngày khách, tăng 4,15% và tăng 13,77%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước tính đạt 139573 lượt, tăng 9,59% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ (chỉ tính khách ngủ qua đêm) ước tính đạt 146788 ngày khách, tăng 9,29%; lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 5620 lượt, tăng 10,89%; ngày khách du lịch theo tour ước tính đạt 14501 ngày khách, tăng 10,86%.
5. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Tháng 4/2018, giá tiêu dùng có giảm so với tháng trước; chủ yếu do giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đồ uống và thuốc lá; may mặc, mũ nón, giày dép; văn hóa, giải trí và du lịch giảm. Tuy nhiên, so với tháng cùng kỳ năm trước tăng do giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng khá cao (do giá dịch vụ khám chữa bệnh cho đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế tăng theo Quyết định số 20/QĐ-UBND ngày 05/9/2017 của UBND tỉnh Quảng Trị); nhóm dịch vụ giáo dục tăng cao (do học phí tăng từ đầu năm học 2017-2018); giá dịch vụ giao thông tăng (do giá xăng dầu tăng); giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng (do giá vật liệu xây dựng tăng).
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2018 giảm 0,08% so với tháng trước; tăng 0,9% so với tháng 12 năm trước và tăng 1,65% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm 2018, tăng 1,63% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,4% (lương thực tăng 0,63%, thực phẩm giảm 5,95%, ăn uống ngoài gia đình tăng 2,96%); đồ uống và thuốc lá giảm 0,13%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,16%; bưu chính viễn thông giảm 1,27%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,56%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,14%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,93%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,46% (do giá dịch vụ khám chữa bệnh cho đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế tăng theo Quyết định số 20/QĐ-UBND ngày 05/9/2017của UBND tỉnh Quảng Trị); giao thông tăng 3,83% (do giá xăng dầu điều chỉnh tăng); giáo dục tăng 22,92% (do tăng học phí từ đầu năm học); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,58%.
Chỉ số giá vàng tháng 4/2018 tăng 0,96% so với tháng trước; tăng 4,83% so với tháng 12 năm trước và tăng 6,71% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 4 tháng đầu năm 2018 tăng 7,12% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2018 tăng 0,17% so với tháng trước; tăng 0,33% so với tháng 12 năm trước và tăng 0,29% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 4 tháng đầu năm 2018 tăng 0,14% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
6. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến ngày 18/4/2018 đạt 567,43 tỷ đồng, bằng 21,85% dự toán địa phương và tăng 13,98% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 499,48 tỷ đồng, bằng 21,76% dự toán và tăng 21,62%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 66,15 tỷ đồng, bằng 21,90% dự toán và giảm 24,12%. Trong thu nội địa một số khoản thu lớn như: thu từ doanh nghiệp nhà nước 75 tỷ đồng, tăng 57,08% so với cùng kỳ năm trước; thu ngoài quốc doanh 129,68 tỷ đồng, tăng 10,5%; lệ phí trước bạ 39,07 tỷ đồng, tăng 54,46%; thuế thu nhập cá nhân 23,26 đồng, tăng 24,85%; thuế bảo vệ môi trường 33,49 tỷ đồng, giảm 45,62%; thu tiền sử dụng đất 100,81 tỷ đồng, tăng 18,53%...
Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/4/2018 đạt 1811,96 tỷ đồng, bằng 23,86% dự toán địa phương và tăng 26,47% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 562,80 tỷ đồng, bằng 67,1% dự toán và tăng 43,87%; chi thường xuyên 1239,84 tỷ đồng, bằng 27,89% dự toán và tăng 22,14%. Trong tổng chi thường xuyên một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 551,17 tỷ đồng, tăng 19,73% so với cùng kỳ năm trước; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 102,56 tỷ đồng, tăng 18,50%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 69,18 tỷ đồng, tăng 11,33%; chi sự nghiệp kinh tế 78,96 tỷ đồng, tăng 107,15%; chi quản lý hành chính 340,38 tỷ đồng, tăng 17,54%...
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Thiếu đói trong nông dân
Đời sống dân cư nói chung và đời sống nông dân nói riêng tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2018 nhìn chung ổn đinh. Mặc dù một bộ phận hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo…nên trong tháng 4/2018, tình hình thiếu đói trong nông dân không xảy ra.
7.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
a. Tình hình dịch bệnh
Ngành y tế đã chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai phòng chống dịch ngay từ đầu năm 2018...Triển khai giám sát, chủ động phát hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm tại bệnh viện tỉnh, tuyến huyện, phòng khám công, tư nhân và tại cộng đồng hàng tuần. Công tác phòng chống và dập dịch được thực hiện tốt nên tình hình bệnh truyền nhiễm xảy ra trên địa bàn hầu hết giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 4/2018, trên địa bàn tỉnh có 8 trường hợp đầu tiên mắc bệnh do virut Adeno gây ra, 1143 trường hợp mắc bệnh cúm, 25 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 53 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 34 trường hợp mắc bệnh quai bị, 95 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 170 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 13 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh có 8 trường hợp đầu tiên mắc bệnh do virut Adeno gây ra, 3395 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 15,1% so với cùng kỳ năm trước; 59 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 45,37%; 146 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, tăng 11,45%; 70 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 27,84%; 182 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 89,58%; 410 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 3,07%; 29 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 27,5%. Tất cả các ca bệnh đều được ngành y tế các cấp quản lý và theo dõi điều trị, không có trường hợp tử vong.
b.Tình hình nhiễm HIV/AIDS
Tỉnh tiếp tục tập trung mở rộng điều trị Methadone, xét nghiệm sàng lọc HIV, xét nghiệm tại cộng đồng và giám sát dịch HIV. Tăng số người nhiễm HIV được tiếp cận với điều trị ARV, bao gồm các trường hợp nhiễm HIV trong trại giam. Điều trị ARV sớm cho các trường hợp nhiễm HIV mới được phát hiện, tiếp cận các ca nhiễm HIV chưa điều trị, triển khai các biện pháp duy trì điều trị ARV. Triển khai các can thiệp phối hợp trong dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, đồng nhiễm lao/HIV…
Trong tháng không phát hiện thêm trường hợp nhiễm HIV nào. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 218 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ); trong đó có 65 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 95 người.
c.Tình hình ngộ độc thực phẩm
Hưởng ứng Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2018 với chủ đề “Tăng cường trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm”, Tỉnh tập trung tăng cường công tác giáo dục, truyền thông, thông tin chính xác, kịp thời, toàn diện, có trách nhiệm, trung thực các vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm. Đề cao vai trò trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan quản lý, tổ chức xã hội và người tiêu dùng đối với việc thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm của các cá nhân, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào.
7.3. Hoạt động văn hóa, thể thao
Trong tháng, Tỉnh đã tổ chức tốt các sự kiện lớn như: Kỷ niệm 111 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 – 07/4/2018); Kỷ niệm 52 năm Ngày truyền thống Đặc công Hải quân (13/4/1966 – 13/4/2018). Chuẩn bị các hoạt động Kỷ niệm 47 năm chiến thắng Đường 9 - Nam Lào; 46 năm ngày giải phóng Quảng Trị (1/5/1972 – 1/5/2018); 43 năm ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 -30/4/2018)…
Đẩy mạnh phong trào “TDĐKXDĐSVH” gắn với việc thực hiện xây dựng nông thôn mới, “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”, “Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”.
Duy trì tập luyện thường xuyên các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ. Tổng số vận động viên (VĐV) được đào tạo tại Trung tâm là: 100 VĐV (Trong đó: 34 VĐV tuyến Tỉnh, 18 VĐV tuyến Trẻ và 48 VĐV tuyến Năng khiếu). Có 05 VĐV được triệu tập vào đội tuyển Quốc gia và đội tuyển trẻ Quốc gia.
Đội tuyển Tỉnh đã tham gia thi đấu Giải Vật cổ điển Cúp Quốc gia tại Huế; Giải vô địch Cử tạ thanh thiếu niên tổ chức ở Hà Nội đạt 03 Huy chương (1HCB, 2HCĐ); Giải Rowing và Canoeing vô địch các Câu lạc bộ toàn quốc tại Đà Nẵng đạt 05 Huy chương (03HCV, 02HCB), xếp thứ Ba toàn đoàn.
Chuẩn bị tốt lực lượng để tham gia Giải Điền kinh vô địch các lứa tuổi trẻ tại Nghệ An; Giải vô địch trẻ Vật ở Thái Nguyên…
7.4. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường
a. Tình hình cháy, nổ
Tỉnh đã tập trung triển khai nhiều giải pháp phòng cháy chữa cháy trong mùa khô năm 2018 như: chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thực hiện phương châm 4 tại chỗ trong phòng cháy, chữa cháy (Đảm bảo lực lượng tại chỗ, phương tiện dụng cụ tại chỗ, chỉ huy tại chỗ và hậu cần tại chỗ) nhằm sẵn sàng cơ động chữa cháy khi xảy ra cháy nổ, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ cháy nổ và thiệt hại do cháy nổ gây ra.
Ngoài ra, tỉnh còn xây dựng, tổ chức thực tập các phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ có sự tham gia phối hợp của nhiều lực lượng, phương tiện, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống liên quan đến cháy, nổ xảy ra trên địa bàn. Củng cố, kiện toàn lực lượng dân phòng, lực lượng PCCC cơ sở vững mạnh, làm nòng cốt trong phong trào toàn dân PCCC, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những điển hình tiên tiến về PCCC&CNCH; phê phán, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi, hiện tượng gây mất an toàn về PCCC&CNCH.
Trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 07 vụ cháy (TP Đông Hà 02 vụ, huyện Hướng Hoá 01 vụ, TX Quảng Trị 02 vụ, huyện Triệu Phong 02 vụ), tăng 03 vụ so với tháng cùng kỳ năm trước, làm 01 người bị thương; nguyên nhân do chập điện, sơ suất trong sử dụng lửa. Tổng giá trị thiệt hại 1545 triệu đồng.
Tính chung từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 15 vụ cháy, giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị thiệt hại 1789 triệu đồng.
b. Bảo vệ môi trường
Ngày Khí tượng thế giới năm 2018 với chủ đề “Sẵn sàng với thay đổi thời tiết, ứng phó thông minh với khí hậu”. Cùng với các hoạt động hưởng ứng ngày Khí tượng thế giới, tỉnh Quảng Trị tăng cường công tác tuyên truyền, nhằm nâng cao ý thức của người dân, cộng đồng, xã hội trong Chiến dịch giờ trái đất 2018 với khẩu hiệu “Go More Green – Hôm nay tôi sống xanh hơn”.
Ngoài ra, Tỉnh đã tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý và giải quyết dứt điểm các vụ việc về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh không phát hiện vụ vi phạm môi trường nào xảy ra.
7.5. Tình hình thiên tai
Tháng 4/2018, trên địa bàn tỉnh không xảy ra thiên tai.
7.6. Tai nạn giao thông
Từ 16/3 đến 15/4/2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, làm chết 07 người, bị thương 07 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông giảm 40% (-08 vụ), số người chết giảm 53,3% (-08 người), số người bị thương giảm 63,2% (-12 người).
Tính chung từ 16/12/2017 đến 15/4/2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 68 vụ tai nạn giao thông, làm chết 46 người, bị thương 47 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 11,7% (-09 vụ), số người chết tăng 9,5% (+04 người), số người bị thương giảm 26,6% (-17 người).
Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2018 tỉnh Quảng Trị./.
► Số liệu KT-XH tháng 4 năm 2018