TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 9 THÁNG NĂM 2011
Thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết số 15/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2010, trong 9 tháng đầu năm 2010, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh nhà diễn ra trong bối cảnh có nhiều sự kiện chính trị xã hội quan trọng: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và bầu cử Quốc hội khóa XIII, bầu cử hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thành công tốt đẹp. Bên cạnh đó tình hình kinh tế vĩ mô của cả nước có những biểu hiện không ổn định, giá cả trên thị trường thế giới và trong nước có xu hướng tăng cao, thị trường tài chính tiền tệ biến động phức tạp. Ngày 24/02/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vỉ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy gặp không ít khó khăn, nhưng cùng với những giải pháp, chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Chính phủ, song song với sự quan tâm chỉ đạo hiệu quả của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh cùng với sự nỗ lực cố gắng của các cấp các ngành, của nhân dân, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Trị có những chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể trên các lĩnh vực như sau:
UBND tỉnh làm việc UBND thành phố Đông Hà
1. Tăng trưởng kinh tế
Ước tính sơ bộ, tổng sản phẩm trong tỉnh 9 tháng năm 2011 đạt 9658 tỷ đồng (GHH). Cơ cấu kinh tế của tỉnh gồm: ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản 29,59% (9 tháng năm 2010: 29,94%); CN-XD 33,96% (9 tháng năm 2010: 33,21%); dịch vụ 36,45% (9 tháng năm 2010: 36,85%).
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế là 9,8% so với 9 tháng năm 2010 (mục tiêu cả năm 11 – 12%), trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,1% (mục tiêu cả năm 4-4,5%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 16,4% (mục tiêu cả năm 19,5 - 20%); khu vực dịch vụ tăng 8,9% (mục tiêu cả năm 9 – 9,5%).
Trong năm 2011 đầu vụ Đông Xuân thời tiết không được thuận lợi, rét đậm, rét hại kéo dài đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thủy sản; vụ Hè Thu tiến độ gieo trồng bị chậm, nên khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng không cao; Riêng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là ngành xây dựng giá nguyên nhiên vật liệu, giá cước vân tải, giá nhân công tăng cao, các đơn vị xây dựng gặp khó khăn về vốn, tình hình giải ngân vốn chậm, trong điều kiện lãi suất ngân hàng tăng cao; hơn nữa thực hiên Nghị quyết 11/NQ-CP về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vỉ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tỉnh đã có chủ trương cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nên giá trị tăng thêm ngành xây dựng đạt thấp làm cho tốc độ tăng trưởng của khu vực này chỉ đạt 16,4%.
2. Tài chính
Thu ngân sách trên địa bàn 9 tháng năm 2011 ước thực hiện 1037 tỷ đồng, đạt 103,7% dự toán năm và tăng 42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 392 tỷ đồng, đạt 111,9% dự toán năm và tăng 65% so với cùng kỳ năm 2010. Nhìn chung tình hình thu ngân sách trên địa bàn năm nay tăng cao so với năm trước; Một số khoản thu đạt và vượt tiến độ so với dự toán là: thu DNNN trung ương, địa phương; DN có vốn đầu tư nước ngoài; thu lệ phí trước bạ; thuế thu nhập cá nhân; thu tiền sử dụng đất; thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu …
Chi ngân sách địa phương ước thực hiện 2800 tỷ đồng, đạt 88,8% dự toán năm và tăng 35% so với cùng kỳ năm 2010; trong đó: chi đầu tư phát triển 187 tỷ đồng, đạt 44,2% dự toán và giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Để thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP tỉnh đã rà soát, tính toán, giao chỉ tiêu tiết kiệm chi thường xuyên cho các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, thực hiện việc tạm dừng mua sắm tài sản, trang thiết bị văn phòng và các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp bách, vì vậy chi ngân sách địa phương giảm so với cùng kỳ năm 2010.
3. Sản xuất Nông, Lâm nghiệp, Thuỷ sản
3.1. Nông nghiệp
- Trồng trọt:
Sản xuất cây hàng năm năm 2011 gặp nhiều khó khăn, vụ Đông Xuân do rét đậm rét hại kéo dài làm chậm tiến độ gieo trồng và làm cho nhiều diện tích lúa, hoa màu bị thiệt hại nặng phải gieo cấy lại. Vụ Hè Thu cũng chậm lịch thời vụ. Ngoài ra còn có sâu bệnh phát sinh gây hại. Trước tình hình đó, tỉnh đã chỉ đạo chặt chẽ của các cấp, các ngành trong việc tổ chức sản xuất; các huyện thị nâng cao tỷ lệ giống mới cho năng suất, chất lượng cao; các cơ quan khuyến nông, bảo vệ thực vật, thủy nông đã chuyển giao kỹ thuật về từng hộ nông dân, bảo đảm dịch vụ bảo vệ thực vật, phòng chống sâu bệnh, tưới tiêu kịp thời,; các hộ nông dân đã đầu tư chăm sóc đảm bảo...Vì vậy, năng suất, sản lượng vụ Đông Xuân đạt cao (trừ cây lạc) và Vụ Hè Thu nếu không gặp lũ cũng cho năng suất cao.
Năm 2011, Tổng diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm là 79968 ha, tăng 1,1% so với năm 2010. Cây lương thực 52131 ha, tăng 7,5%, trong đó lúa 48500 ha, tăng 1,0%. Cây ngô gieo trồng được 3630,7 ha, tăng 1,9%. Cây chất bột có củ 15475,9 ha, tăng 4,7%, trong đó cây sắn là 10739,2 ha, tăng 28,1%. Cây rau đậu các loại gieo trồng được 7009,7 ha, giảm 1%. Cây công nghiệp ngắn ngày gieo trồng được 4705,2 ha, giảm 6,5%, trong đó lạc 4491,4ha, giảm 6,1%.
Về năng suất, sản lượng, cây lúa năng suất ước đạt 48,1tạ/ha (tăng 2,7tạ/ha so với năm 2010), sản lượng 233134 tấn (tăng 8%); cây ngô năng suất, sản lượng đều giảm. Sản lượng lương thực đạt 240955 tấn, tăng 8% so với năm 2010.
- Chăn nuôi
Đến thời điểm hiện nay nhìn chung ngành chăn nuôi Quảng trị tuy không có dịch bệnh lớn xảy ra, nhưng cục bộ từng vùng vẫn xảy ra dịch bệnh. 9 tháng năm 2011 đã xảy ra dịch cúm gia cầm ở Hải Lăng, Thị xã Quảng trị và Gio Linh; dịch tụ huyết trùng ở Hướng Hóa.
Về đàn lợn, hiện nay do giá giống lợn con quá cao nên nhiều hộ không mua được giống lợn để nuôi và có tình trạng thu gom lợn con giống xuất sang Trung quốc nên làm khan hiếm nguồn giồng và đẩy giá lợn giống lên cao, đàn lợn thịt bị giảm.
Về đàn gia cầm, ngành chăn nuôi đang vận động khuyến khích bà con nông dân tập trung đầu tư để đẩy nhanh tốc độ phát triển đàn gia cầm.
Các huyện thị trong tỉnh đã chỉ đạo các Trạm Thú y triển khai tiêm phòng định kỳ cho gia súc, gia cầm, đã triển khai tại 138 xã thị trấn của 9 huyện thị. Công tác kiểm tra, kiểm soát giết mổ, vận chuyển gia súc gia cầm được quản lý tốt và thường xuyên hơn.
3.2. Lâm nghiệp:
Về công tác trồng và chăm sóc, nuôi dưỡng rừng: Thực hiện kế hoạch giao từ đầu năm, các Ban quản lý dự án lâm nghiệp đã có sự chuẩn bị tốt trong việc chuẩn bị như khoanh vùng trồng rừng, phát dọn thực bì, làm đất và chuẩn bị cây giống, phân bón các lọai và sẽ tiến hành trồng vào mùa mưa theo kế họach trồng rừng năm 2011 tỉnh Quảng Trị.
9 tháng, diện tích rừng chăm sóc thực hiện 19385 ha, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2010. Diện tích trồng chăm sóc chủ yếu là trồng 3 năm trở lại đây. Diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh thực hiện được 1056 ha.
9 tháng, khối lượng gỗ khai thác được 82362 m3, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2010, lượng gỗ khai thác được trong năm chủ yếu là do thu họach từ diện tích rừng trồng của Nhà nước, tập thể, cá nhân đến kỳ thu hoạch.
Về tình hình thiệt hại rừng, đến thời điểm hiện nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 7 vụ cháy rừng với diện tích rừng bị cháy 50 ha, giá trị thiệt hại 323 triệu đồng.
3.3. Thủy sản:
Với chủ trương duy trì và mở rộng diện tích nuôi tôm, nên bà con nông dân đã tích cực đầu tư tăng diện tích nuôi trồng trên tất cả các vùng, khuyến khích mở rộng hồ trên cát, chuyển đổi một số diện tích vùng sâu trồng lúa không hiệu quả sang mô hình lúa cá hoặc cá và thực tế được sự quan tâm hưởng ứng của bà con nông dân. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2011 có 2756 ha. Trong đó: diện tích nước ngọt 1717 ha, chủ yếu là diện tích nuôi cá; diện tích nước lợ 1006 ha.
9 tháng năm 2011, sản lượng khai thác thủy sản thực hiện 14679 tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2010; sản lượng nuôi trồng đạt 6136 tấn, tăng 2%.
4. Công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong năm 2011 gặp không ít khó khăn, đó là phải chịu giá cả nguyên nhiên vật liệu đầu vào cao cộng với lãi suất ngân hàng biến động lớn. Tuy nhiên ngay từ đầu năm tỉnh đã chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất tập trung vào các sản phẩm có sức cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định, khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư sản xuất, tăng cường xúc tiến thương mại nên nhiều hợp đồng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp được ký kết..Kết quả sản xuất công nghiệp đạt được như sau:
Giá trị sản xuất công nghiệp (Giá cố định 1994) 9 tháng năm 2011 thực hiện 1404 tỷ đồng, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó: khu vực kinh tế nhà nước thực hiện 425 tỷ đồng, tăng 9,7%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước 872 tỷ đồng, tăng 19,6%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 107 tỷ đồng, tăng 6,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng (theo giá gốc 2005) tăng 15,9% so cùng kỳ năm 2010. Trong đó, công nghiệp khai thác mỏ giảm 4,1%; công nghiệp chế biến tăng 20,6%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 2,1%.
9 tháng năm 2011, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Đá xây dựng tăng 5%; Tinh bột sắn tăng 92,5%; Ván ép tăng 11,3%; Phân hỗn hợp(N,P,K) tăng 95,3%.
5. Đầu tư và xây dựng
Công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực đầu tư được các ngành chức năng triển khai tích cực, đặc biệt là vốn ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Tỉnh đã và đang triển khai nghiêm túc việc rà soát, cắt giảm và điều chuyển vốn đầu tư theo đúng tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ, đồng thời tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Tỉnh đã ra các quyết định điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư năm 2011, bổ sung nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia 56 tỷ đồng; vốn trái phiếu chính phủ 359 tỷ đồng; vốn khắc phục hậu quả lũ lụt 330 tỷ đồng (Trong đó có các công trình sửa chữa nâng cấp tuyến đường thôn bản Chùa đi thôn An Mỹ: 25 tỷ đổng; nạo vét và kè xói lở khẩn cấp sông Hiếu: 22 tỷ đồng; sửa chữa nâng cấp một số đoạn cấp bách kè biển cửa tùng: 25 tỷ đồng; Nạo vét kè xói lở sông Hồ Xá: 30 tỷ đồng...). Ở các địa phương đã chú trọng đầu tư có trọng điểm, quan tâm đầu tư các công trình thiết yếu phục vụ nhân dân, đặc biệt là các xã thuộc diện đặc biệt khó khăn.
Dự ước vốn đầu tư thuộc nguồn vốn Nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng năm 2011 thực hiện 1332 tỷ đồng, giảm 6,9% so cùng kỳ năm trước. Trong tổng số, nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh thực hiện 973 tỷ đồng, chiếm 73% tổng vốn, nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện thực hiện: 340 tỷ đồng, chiếm 25,5% và nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp xã thực hiện 19 tỷ đồng, chiếm 1,5% tổng vốn.
Thực hiện đầu tư 9 tháng đầu năm 2011 có các công tŕnh quan trọng của tỉnh như: Công trình Thủy lợi Đá Mài – Tân Kim, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Kết cấu hạ tầng thành phố Đông Hà, Quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị.
Về công tác giải ngân thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương quản lý đến 31/8/2011, Chi nhánh Ngân hàng phát triển thực hiện: 148,61 tỷ đồng, đạt 54,9% kế hoạch năm; Kho Bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 622 tỷ đồng, đạt 52,4 kế hoạch năm 2011.
Về nguồn vốn ODA: Trong 9 tháng/2011 đã tích cực chuẩn bị và phối hợp vận động tài trợ các dự án như: Dự án Phát triển cấp nước Đông Hà và vùng phụ cận (Ngân hàng phát triển Châu Á); Dự án hệ thống thu gom và xử lư nước thải thành phố Đông Hà (Ngân hàng thế giới); Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu (Ngân hàng thế giới), Dự án trang thiết bị y tế bệnh viện khu vực Triệu Hải (Hàn Quốc), dự án nâng cấp cơ sở ngành y tế tỉnh Quảng Trị (Italia)... Đến nay, vốn dự án ODA đã thực hiện giải ngân 146 tỷ đồng, đạt 73% kế hoạch năm 2011
Nguồn vốn FDI: Tính đến cuối tháng 9/2011, có 10 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng kư 47,97 triệu USD (767 tỷ VND), trong đó một số dự án đang triển khai hoạt động có hiệu quả: Nhà máy sản xuất nước uống tăng lực, Nhà máy sản xuất Săm - Lốp xe máy, Nhà máy sản xuất và lắp ráp xe máy - xe đạp điện Phương Nam, Dự án Fidfirst, Nhà máy lắp ráp điện thoại di động ICALL, dự án nuôi tôm thẻ chân trắng của Công ty Cổ phần C.P Việt Nam - Chi nhánh Quảng Trị …9 tháng năm 2011 vốn FDI thực hiện 1,8 triệu USD, bằng 44% so với cùng kỳ năm 2010.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng 9 tháng đầu năm 2011 thực hiện 3171 tỷ đồng, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước thực hiện 14,2 tỷ đồng, tăng 142%; doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện 1649 tỷ đồng, tăng 10,9%; loại hình khác thực hiện 1508 tỷ đồng, tăng 6,9%.
Hiện nay, trong hoạt động đầu tư, xây dựng vẫn còn vướng mắc đó là: Công tác kiểm kê, đền bù giải phóng mặt bằng còn vướng mắc; việc cấp vốn chưa kịp thời vẫn còn xảy ra ở một số công trình; nguồn vốn ngân sách địa phương còn khó khăn. Mặt khác giá vật liệu xây dựng (sắt, thép, gạch nung, xi măng...) có biến động tăng. Vì vậy đã làm chậm tiến độ xây dựng các công trình, một số công trình phải ngừng thi công, làm cho giá trị sản xuất xây dựng tăng chậm so với năm 2010.
6. Thương mại – Giá cả - Dịch vụ
Tình hình hoạt động thương mại và dịch vụ trong 9 tháng năm 2011 diễn ra trong bối cảnh Nhà nước thắt chặt đầu tư công, thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, cùng với giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao đã ảnh hưởng một phần đến sức mua của nền kinh tế. Ngoài ra do nhu cầu sản xuất của nền kinh tế thế giới giảm nên xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn cũng bị ảnh hưởng. Kết quả hoạt động thương mại dịch vụ đạt được như sau:
6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
Ước tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội 9 tháng/2011 thực hiện 9529 tỷ đồng, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước thực hiện 1050 tỷ đồng, tăng 63,8%; thành phần kinh tế ngoài nhà nước thực hiện 8478 tỷ đồng, tăng 27%.
Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp thực hiện 8186 tỷ đồng, tăng 30,9%; khách sạn nhà hàng thực hiện 865 tỷ đồng, tăng 29%; dịch vụ thực hiện 465 tỷ đồng, tăng 22,3%; du lịch lữ hành 13,3 tỷ đồng, tăng 33,9%.
6.2. Về tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu
Ước kim ngạch xuất khẩu 9 tháng/2011 thực hiện 40138 ngàn USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2010. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm: Cà phê 1262 tấn, phân NPK 8603 tấn, hàng nông sản khác 7518 ngàn USD, thực phẩm chế biến 6090 ngàn USD, hàng hoá khác 14031 ngàn USD.
Ước kim ngạch nhập khẩu thực hiện 46442 ngàn USD, tăng 10,8%. Một số mặt hàng nhập khẩu là thực phẩm chế biến 6225 ngàn USD; hàng điện tử 5990 ngàn USD; máy móc thiết bị 14766 ngàn USD; gỗ xẻ các loại 17044 m3(16844 ngàn USD); thạch cao 109630 tấn (1180 ngàn USD).
6.3. Về giá cả thị trường
Giá cả thị trường 9 tháng đầu năm 2011 tăng 20,77% so với tháng 12 năm 2010. Trong đó, chỉ số giá một số nhóm hàng chủ yếu là: lương thực tăng 14,41%; thực phẩm tăng 32,33%; ăn uống ngoài gia đình tăng 22,04%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tăng 20,93%; giao thông tăng 21,32%; bưu chính viễn thông giảm 2,15%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 10,78%; may mặc, mũ nón, dày dép tăng 12,43%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,28%; thuốc dịch vụ y tế tăng 3,71%; giá vàng tăng 31,84%; Giá USD giảm 11,29%.
Xu hướng biến động giá 9 tháng đầu năm là tăng cao trong quí I, chững lại cuối quí II và tăng mạnh trở lại vào cuối quí III. Trong thời gian tới giá tiêu dùng có khả năng tiếp tục tăng do nhu cầu tiêu dùng thường tăng vào cuối năm; hiện nay mưa lớn kéo dài ở các tỉnh miền Trung nên có nguy cơ lũ lụt thiệt hại cho sản xuất dẫn đến giá nhóm lương thực thực phẩm tăng, đặc biệt giá điện chuyển sang tính theo giá nguyên liệu đầu vào trên thị trường nên cũng có khả năng tăng, kéo theo nhiều sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tăng.
6.4. Giao thông vận tải
Ước doanh thu vận tải 9 tháng/2011 thực hiện 468 tỷ đồng tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2010. Khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện 5353 ngàn người, tăng 5%; khối lượng hành khách luân chuyển thực hiện 548466 ngàn người.km, tăng 6,6%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển thực hiện 4754 ngàn tấn, tăng 5,2%; khối lượng hàng hoá luân chuyển thực hiện 350337 ngàn tấn.km, tăng 7,1%.
7. Văn hóa, xã hội
7.1. Lao động việc làm và đời sống dân cư
Theo kết quả điều tra lao động việc làm hiện nay tỷ lệ thất nghiệp toàn tỉnh là 1,9% (Trong đó: thành thị 2,8%, nông thôn 0,9%); tỷ lệ thiếu việc làm toàn tỉnh là 6,1% (Trong đó: thành thị 7,2%, nông thôn 4,7%).
Đạt được kết quả đó là nhờ công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề của tỉnh trong thời gian qua có hiệu quả hơn. Trong đó, các hoạt động tư vấn, tuyên truyền, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động tiếp tục được đẩy mạnh, phát triển mạnh ở các địa phương, cơ sở; Đề án xuất khẩu lao động đối với huyện nghèo theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ được phối hợp thực hiện tốt.
Kết quả tổng hợp từ các địa phương, các ngành sản xuất, kinh doanh cho thấy: tính đến cuối tháng 8/2011, các hoạt động thu hút đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xă hội trên địa bàn của tỉnh, các chương tŕnh phát triển kinh tế - xă hội và các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm đă giải quyết việc làm cho 5.510 người, đạt 58% kế hoạch năm, trong đó các chương trình phát triển kinh tế - xă hội giải quyết việc làm mới cho trên 4.404 người (Chương tŕnh cho vay vốn hỗ trợ việc làm trong 8 tháng tạo việc làm mới cho 682 người); tư vấn, giới thiệu việc làm cho 598 người đi làm việc ở ngoài tỉnh; 508 người đi xuất khẩu lao động (trong đó có 258 lao động đi làm việc tại Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia, c̣n lại đi làm việc tại Lào).
Công tác tuyển sinh: Các cơ sở dạy nghề đã mở được 200 lớp gồm 6.333 người để đào tạo nghề, trong đó trung cấp nghề: 100 người, đào tạo nghề tŕnh độ sơ cấp và dạy nghề dưới 3 tháng 6.233 người (trong đó đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn: 4876 người, dân tộc thiểu số: 1258 người, người tàn tật: 69 người, người nghèo là 30 người). Số học sinh ra trường trong 8 tháng đầu năm 2011: Trung cấp nghề: 22 người; sơ cấp nghề: 886 người; dạy nghề thường xuyên:1.200 người.
Trong 9 tháng năm 2011, giá cả hàng hóa tăng cao cùng với thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư, đặc biệt là nông dân các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa và người lao động có thu nhập thấp ở khu vực thành thị. Tuy nhiên, được sự quan tâm của Chính phủ cùng với việc thực hiện tốt các chính sách an sinh, xã hội của các cấp, các ngành, các địa phương nên nhìn chung đời sống đại bộ phận dân cư tương đối ổn định.
Tỉnh đã tập trung quản lý, chỉ đạo và triển khai thực hiện các nhiệm vụ về giải quyết việc làm, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, xoá đói giảm nghèo; giải quyết chế độ kịp thời đối với các gia đình chính sách; thực hiện cứu trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác. Công tác xoá đói giảm nghèo luôn luôn được chú trọng, tỉnh đã có nhiều giải pháp và mô hình áp dụng cho từng địa phương, nhằm không ngừng đẩy lùi số hộ nghèo giảm xuống.
Công tác hỗ trợ cho huyện Đakrông (một trong 62 huyện nghèo của cả nước) được tỉnh và cả nước quan tâm. Công tác “ đền ơn đáp nghĩa” đang được triển khai thực hiện tốt với các hoạt động như chăm sóc người có công, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho thương binh, gia đ́ình liệt sỹ, người có công với cách mạng; xây nhà tình nghĩa...
Đến tháng 9/2011, toàn tỉnh có 29731 hộ nghèo đã được cấp giấy chứng nhận hộ nghèo để thực hiện chính sách ưu đãi trong y tế và giáo dục cho người nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo là: 19,8%; tỷ lệ hộ cận nghèo là: 15,2% (22887 hộ). (Theo số liệu của SLĐTB – XH).
Nhà nước đã điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng từ 730 nghìn đồng/tháng lên 830 nghìn đồng/tháng từ 01/5/2011 và việc thực hiện trợ cấp khó khăn cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi, người có công và hộ nghèo theo Quyết định số 471/QĐ-TTg ngày 30/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ cũng phần nào cải thiện đời sống cho các đối tượng trên.
7.2. Giáo dục
Vào đầu năm học 2011-2012 toàn tỉnh có 157 trường mẫu giáo mầm non; 162 trường tiểu học; 111 trường trung học cơ sở; 18 trường PTCS (cấp 1 + 2); 2 trường PTTH (2+3); 31 trường THPT.
Tổng số học sinh mầm non huy động là 30.000 cháu. Trong đó, nhà trẻ 4500 cháu, chiếm 17,6% dân số 0-2 tuổi; mẫu giáo 25500 cháu, chiếm 76,1% dân số 3-5 tuổi.
Sè trÎ huy ®éng ®Õn c¸c líp nhµ trÎ, mÉu gi¸o ngµy cµng nhiÒu nhng phÇn lín tËp trung vïng thµnh thÞ vµ n«ng th«n cã kinh tÕ ph¸t triÓn, cßn vïng s©u, vïng nói cao, th× viÖc tæ chøc c¸c líp vµ huy ®éng ®îc rÊt khã kh¨n.
Tổng số học sinh phổ thông niên học 2010-2011 là 133850 em, tăng 0,15% (+202 em) so với niên học 2010-2011. Trong đó: Tiểu học 56500 em, trung học cơ sở 46650 em, trung học phổ thông 30700 em.
Tính đến cuối năm học 2010-2011 tỉnh Quảng Trị có 226 trường đạt chuẩn Quốc gia, trong đó: mầm non 45 trường; Tiểu học 137 trường; THCS 41 trường và THPT 3 trường. Tỷ lệ kiên cố hóa phòng học toàn ngành đạt 68%.
Về đội ngũ cán bộ, giáo viên, hiện nay, toàn ngành có 10.582 biên chế, đảm bảo trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, tư cách đạo đức tốt, có ý thức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Để nâng cao chất lượng dạy và học, ngành đã chú trọng tiếp tục thi tuyển, lựa chọn cán bộ giáo viên có đủ trình độ năng lực chuyên môn, bổ sung cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Tuyển mới trong năm học 2011- 2012 được trên 120 giáo viên
Trong tháng 6 đã tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2010-2011. Toàn tỉnh có 11022 học sinh dự thi tốt nghiệp, trong đó: THPT 9834 học sinh, bổ túc THPT 1188 học sinh; Tỷ lệ tốt nghiệp bậc trung học phổ thông là 94,33% (Trong đó, tốt nghiệp THPT là 94,74%, giảm 1,72% so với năm 2010; tỷ lệ đổ tốt nghiệp bổ túc THPT là 94,28%, tăng 3,36%). Có 4 trường THPT tỷ lệ đổ tốt nghiệp 100% gồm: trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, trường THPT Thị xã Quảng Trị, trường THPT Vỉnh Linh, trường THPT dân tộc Nội trú tỉnh
7.3. Văn Hoá -TDTT
Năm 2011 diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; nhiều ngày kỷ niệm lớn của quê hương đất nước như Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngày Thương binh liệt sĩ, Đón xuân Tân Mão; đặc biệt là đẩy mạnh Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Song song đó là nhiều hoạt động văn hóa, thể dục thể thao được tổ chức nhằm chào mừng các sự kiện và ngày lễ lớn trong năm.
Nổi bật là các hoạt động: Lễ hội giao thừa đêm 30 Tết tại Quảng trường Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh; Hội báo Xuân Tân Mão năm 2011 mừng Đảng, mừng Xuân với hơn 400 ấn phẩm báo chí, với 1.000 đầu báo từ Trung ương đến địa phương được trưng bày; Chương trình Liên hoan nghệ thuật Ba nước Đông Dương; Chương trình “ Huyền thoại Thành Cổ Quảng Trị”; tổ chức Lễ Tri ân và lưu danh liệt sỹ Thành Cổ Quảng Trị; Chương trình “Trường Sơn hội tụ” nhân dịp kỷ niệm 64 năm ngày Thương binh-Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2011); kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam...Bên cạnh đó là các hoạt động thi đấu thể thao diễn ra sôi nổi với các trò chơi dân gian cũng như hiện đại.
Tại các huyện, thị, thành phố trong tỉnh, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục được đẩy mạnh với các hoạt động: hoàn thành việc kiện toàn BCĐ phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thực hiện nếp sống văn hoá – văn minh đô thị. Phát động xây dựng làng văn hoá, hướng dẫn cơ sở xây dựng Quy ước xã văn hoá, tổ chức lễ công nhận các làng văn hoá, đơn vị văn hoá,…Qua 10 năm triển khai thực hiện phong trào, đến nay toàn tỉnh có 117.002/134.110 gia đình được công nhận Gia đình văn hóa, đạt 87%; 1.467/1.799 làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị được công nhận làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 81,5%. Toàn tỉnh có 127/141 xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, 941/1.467 làng, bản, khu phố có nhà văn hóa, hơn 500 cổng chào được kiên cố…
7.4. Y Tế:
Công tác Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân tiếp tục được quan tâm, tỉnh đã tập trung chỉ đạo ngành Y tế, các địa phương đẩy mạnh thực hiện các nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo dục truyền thông về phòng chống HIV/AIDS. Tăng cường công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, tổ chức thanh tra, kiểm tra về VSATTP trước, trong và sau Tết và các dịp lễ hội, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm.
7.4.1. Công tác phòng chống dịch bệnh:
Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh, ngay từ đầu năm, Sở Y tế đã chỉ đạo tăng cường giám sát, theo dõi và khống chế, xử lý kịp thời không để dịch bùng phát, lây lan trên diện rộng. Trong 9 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh không có dịch lớn xảy ra, tình hình mắc các bệnh truyền nhiễm giảm so với cùng kỳ 2010 như sốt rét (519 ca/8 tháng), sốt xuất huyết (8 ca/8 tháng); một số bệnh như thuỷ đậu, tiêu chảy, lỵ, viêm gan virut, cúm,… có dấu hiệu tăng hơn năm trước, đặc biệt bệnh thuỷ đậu tăng cao hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010 (ghi nhận trong 8 tháng đầu năm có 725 ca mắc, đến nay dịch thuỷ đậu đã được kiểm soát). Thời gian này ở một số tỉnh thành khác đang có dịch tay chân miệng, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã có rải rác một số ca bị nhiễm (27 ca) tuy nhiên không phát thành dịch. Tuy nhiên bệnh do liên cầu lợn ở người có 3 ca mắc, tử vong 1 ca, uốn ván sơ sinh có 1 ca tử vong. Ngành y tế còn tăng cường kiểm dịch người và phương tiện qua biên giới, kiểm tra cúm AH5N1, không phát hiện trường hợp nhiễm bệnh.
Công tác phòng chống bệnh sốt rét: trên địa bàn toàn tỉnh bệnh nhân sốt rét giảm 36% so với cùng kỳ, đặc biệt giảm ở các huyện, các xã miền núi Hướng Hoá, Đakrông, Vĩnh Linh.
7.4.2. Tiêm chủng mở rộng:
Các chỉ số tiêm chủng nhìn chung đạt kế hoạch đề ra, không có trường hợp tai biến do tiêm chủng.
Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em; chú trọng trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng, giám sát tăng trưởng của trẻ em. Tổ chức tốt ngày vi chất dinh dưỡng.
7.4.3. Vệ sinh an toàn thực phẩm:
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được các cấp chính quyền cũng như các cơ quan chức năng quan tâm. 100% các huyện thị thành phố đã thành lập và kiện toàn ban chỉ đạo liên ngành về ATVSTP, 114/141 xã phường (80,8%) đã thành lập ban chỉ đạo liên ngành về ATVSTP. Toàn tỉnh đã thành lập được 93 đoàn kiểm tra liên ngành và chuyên ngành về ATVSTP. Công tác thông tin truyền thông được triển khai tốt, đa dạng trên nhiều loại hình; 100% các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm tuyến tỉnh được phổ biến tuyên truyền Luật an toàn thực phẩm. Do làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm nên đã góp phần hạn chế tình trạng ngộ độc thực phẩm. Trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc tập thể.
7.4.4. Tình hình nhiễm HIV/AIDS:
Tính đến 05/9/2011 trên địa bàn toàn tỉnh hiện có 306 ca nhiễm HIV, 131 trường hợp phát bệnh AIDS, 54 trường hợp tử vong do AIDS.
8. Tai nạn giao thông(Từ 25/12/2010 đến 10/9/2011)
Toàn tỉnh xảy ra 140 vụ tai nạn giao thông tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; làm chết 127 người, tăng 5,83%; bị thương 97 người, tăng 6,1%; tổng tài sản thiệt hại 492 triệu đồng, tăng 23,8%.
Tóm lại: Trong 9 tháng năm 2011, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Trị đứng trước nhiều khó khăn: mưa rét kéo dài làm cho nhiều diện tích cây hàng năm phải gieo cấy lại, dịch cúm gia cầm H5N1, tụ huyết đã xảy ra một số địa phương, lạm phát tăng cao, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do lãi suất tín dụng và giá nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao...đã ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống xã hội. Nhưng với sự quan tâm chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của lãnh đạo tỉnh, các cấp, các ngành. Sự cố gắng khắc phục khó khăn của các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên đã chủ động giải quyết kịp thời, khắc phục khó khăn, nhờ vậy kết quả đạt được về kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Trị trong 9 tháng năm 2011 là khả quan. Để thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011, trong thời gian tới, các cấp, các ngành, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ thông qua tuân thủ nghiêm túc chương trình hành động mà UBND tỉnh đã ban hành.
Trên đây là một số tình hình KT-XH 9 tháng năm 2011. Cục Thống kê Quảng Trị xin báo cáo để các cấp, các ngành biết chỉ đạo.
CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ