Ngày 21/12/2011, Ban chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản (BCĐ TĐT NT-NN&TS) tỉnh tổ chức hội nghị tổng kết TĐT NT-NN&ST năm 2011. Đồng chí Nguyễn Quân Chính, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo TĐT NT-NN&TS tỉnh chủ trì hội nghị.
Đồng chí Nguyễn Quân Chính - Trưởng ban chỉ đạo
Kết quả một số chỉ tiêu tổng hợp từ TĐT NTNN-TS năm 2011
1. Tình hình cơ bản của hộ:
Tỉnh Quảng Trị có 8 huyện, 2 thành phố và thị xã, trong đó có 2 huyện miền núi Hướng hoá , Đakrong và huyện đảo Cồn cỏ.
Kết quả TĐT cho thấy: Tổng số hộ nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản toàn tỉnh hiện có là 115.812 hộ tăng 7.875 hộ so với Tổng điều tra nông thôn nông nghiệp năm 2006. Trong đó hộ nông thôn, nông nghiệp sống ở khu vực nông thôn có 107.874 hộ tăng 7440. Hộ sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản ở khu vực thành thị có 7.938 hộ tăng 433hộ so với năm 2006.
Tổng số nhân khẩu 453.429 người , giảm 12169 người so với Tổng điều tra nông thôn nông nghiệp năm 2006. Bình quân nhân khẩu/hộ có 3,9 người, trong đó các huyện có bình quân nhân khẩu thấp như Vỉnh Linh có 3,5người/hộ, hai huyện miền núi có bình quân nhân khẩu cao 4,7người/hộ.
Tổng số người trong độ tuổi lao động có 239.239 người, chiếm 52.7 % tổng số nhân khẩu, tăng 2.544 người so với người trong độ tuổi lao động tổng điều tra năm 2006. Số người trong độ tuổi lao động bình quân/ 1 hộ là: 2,06 người, thấp hơn so với Tổng điều tra năm 2006 (năm 2006 có 2,19 người/hộ).
- Về cơ cấu hộ chia theo ngành sản xuất chính:
So với kết quả tổng điều tra nông thôn nông nghiệp năm 2006 cho thấy cơ cấu ngành sản xuất chính của hộ đã có sự chuyển dịch rõ nét theo hướng giảm tỷ trọng hộ nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng hộ công nghiệp, hộ xây dựng, thương mại, dịch vụ.
+ Tỷ lệ Hộ Nông nghiệp chiếm trong tổng số hộ điều tra 67,2% giảm 4,7%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ lâm nghiệp chiếm 0,8% tăng 0,3%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ Thuỷ sản chiếm 4,7% giảm 1,3%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ CN chiếm 3,5% tăng 0,7%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ xây dựng chiếm 3,4% tăng 1,2%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ thương nghiệp chiếm 6,9% tăng 0,2%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ Vận tải chiếm 1,1% tăng 0,4%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ Dịch vụ khác chiếm 6,7% tăng 2,6%.so với năm 2006.
+ Tỷ lệ Hộ khác chiếm 5,7% tăng 0,6%.so với năm 2006.
- Về thu nhập chính của hộ năm 2011:
Trong tổng số hộ nông thôn nông nghiệp và thuỷ sản năm 2011:
Có 78.183 hộ có nguồn thu nhập lớn nhất thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, chiếm tỷ lệ 67,5% tổng số hộ nông thôn nông nghiệp.
Có 10.134 hộ có nguồn thu nhập lớn nhất thu từ sản xuất công nghiệp và xây dựng, chiếm tỷ lệ 8,8% tổng số hộ nông thôn nông nghiệp.
Có 18.653 hộ có nguồn thu nhập lớn nhất thu từ sản xuất thương nghiệp, vận tải và dịch vụ , chiếm tỷ lệ 16,1% tổng số hộ nông thôn nông nghiệp.
Có 8,842 hộ có nguồn thu nhập lớn nhất thu từ nguồn khác (như hưu trí, phụ cấp, quà biếu…), chiếm tỷ lệ 7,6% tổng số hộ nông thôn nông nghiệp.
So sánh với năm 2006: Cơ cấu nguồn thu nhập chính của hộ nông thôn nông nghiệp thuỷ sản năm 2011 đã có những chuyễn biến tích cực theo xu hướng chuyễn dịch cơ cấu lao động, phát triển ngành nghề .
2. Tình hình cơ bản trang trại:
Căn cứ vào tiêu chí xác định kinh tế trang trại mới theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và PTNT :
Đến 1/7/2011 chỉ có 5 trang trại trong toàn tỉnh đạt tiêu chí do bộ NN&PTNT quy định , cụ thể danh sách trang trại của các huyện như sau:
1. Trang trại trồng cây lâu năm (Cây Cao su) của anh Nguyễn Văn Dủng tại xã Vỉnh Thuỷ huyện Vỉnh Linh.
2. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản (Nuôi Tôm) của anh Phan Văn Minh tại xã Trung Hải huyện Gio Linh.
3. Trang Traị chăn nuôi (Nuôi Lợn) của anh Trần Xuân Dủng tại xã Gio Quang huyện Gio Linh.
4. Trang Traị chăn nuôi (Nuôi Lợn) của chị Lê Thị Thanh Hương tại xã Gio Mỷ huyện Gio Linh.
5. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản (Nuôi Tôm) của anh Vỏ Đức Thiên tại xã Triệu Vân huyện Triệu Phong.
3. Tình hình cơ bản và cơ sở hạ tầng của xã (tính đến 1/7/2011)
Toàn tỉnh đã điều tra toàn bộ 117 xã, giảm 1 xã do chuyễn xã Vỉnh Quang lên thành thị trấn Cửa Tùng.
Về cơ sở hạ tầng của các xã đã có những tiến bộ vượt bậc nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với sự cố gắng của nhân dân địa phương nên các công trình hạ tầng như: đường ô tô, trạm xá, trường học, bưu điện, nhà trẻ, mẫu giáo, chợ của các xã tăng nhanh cụ thể:
Mạng lưới điện quốc gia đã về hầu hết các thôn trong tỉnh Quảng Trị: có 100% xã có điện và có 833/858 thôn có điện chiếm tỷ lệ 97% số thôn , còn 25 thôn bản vùng sâu miền núi chưa có điện, trong đó huyện Hướng Hoá có 10 bản, huyện Đakrong có 13 bản và Vỉnh Linh có 2 bản do địa bàn khá xa và địa hình khó xây dựng nên đến nay chưa có điện.
Đường giao thông nông thôn trong những năm qua được năng cấp cải tạo và xây dựng mới, tạo điều kiện cho kinh tế xã hội nông thôn phát triển. Giao thông nông thôn Quảng Trị đã có bước phát triển về chiều rộng và chiều sâu: có 100% xã có đường về đến trụ sở UBND xã trong đó có 101/117 xã có đường nhựa, bê tông về xã . Đường trục liên xã có tổng độ dài 1310km trong đó có 722km đã được nhựa hoá, bê tông hoá (chiếm 55% ). Đường trục thôn (nối các thôn đến các xóm) dài11543km trong đó có 7815km đã được nhựa hoá, bê tông hoá ( chiếm 67,7%).
Hệ thống cơ sở vật chất giáo dục vùng nông thôn Quảng Trị được đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh: 100% số xã có trường học bậc tiểu học với 142 trường trong đó có 121 trường tiểu học xây dựng kiên cố. Có 102 xã có trường trung học cơ sở trong đó có 94 trường xây dựng kiên cố.
Mạng lưới y tế: Hiện có 100% số xã có cơ sở y tế. Trạm y tế xã đảm bảo bước đầu sơ cấp cứu và chữa trị những bệnh nhẹ, đáp ứng nhu cầu chăm sóc y tế của nhân dân nông thôn, có 845/858 thôn có y tế thôn. Các xã có 53 bác sỷ và 533 y sỉ, y tá, nử hộ sinh. Có 46 xã có cơ sở kinh doanh thuốc tây y với 85 quầy thuốc.
Mạng lưới thông tin văn hoá: Toàn tỉnh hiện có 112/117 xã có điểm bưu chính viển thông; 97 xã có điểm bưu điện văn hóa xã, có 32 điểm nối mạng internet và có 121 điểm kinh doanh DV internet tư nhân trên địa bàn các xã: Có 48 xã có nhà văn hoá xã, và 628/858 thôn có nhà văn hóa thôn . Có 107 xã có tủ sách pháp luật , 58 xã có sân thể thao ; 43 xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn, và có 514/858 thôn, bản có hệ thống loa truyền thanh của thôn. Ngoài ra hàng loạt cơ sở hạ tầng khác củng được xây dựng, nâng cấp như chợ, hệ thống mương máng thuỷ lợi, công trình cấp nước sinh hoạt tập trung…
Một số hình ảnh trong buổi lễ Tổng kết
Tặng Bằng khen UBND tỉnh cho các tập thể, cá nhân xuất sắc
Đồng chí Nguyễn Đăng Việt - Phó trưởng ban chỉ đạo
Đồng chí: Nguyễn Thanh Nghị - Thành viên - Tổ trưởng tổ thường trực