Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 629
Hôm nay: 542
Lượt truy cập: 1,417,080
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2011
Cập nhật bản tin: 11/28/2011
            

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011

Thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết số 15/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2011, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh  diễn ra trong bối cảnh có nhiều sự kiện chính trị xã hội quan trọng: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và bầu cử Quốc hội khóa XIII, bầu cử hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thành công tốt đẹp. Bên cạnh đó tình hình kinh tế vĩ mô của cả nước có những biểu hiện không ổn định, giá cả trên thị trường thế giới và trong nước có xu hướng tăng cao, thị trường tài chính tiền tệ biến động phức tạp. Ngày 24/02/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vỉ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy gặp không ít khó khăn, nhưng cùng với những giải pháp, chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Chính phủ, song song với sự quan tâm chỉ đạo hiệu quả của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh cùng với sự nỗ lực cố gắng của các cấp, các ngành, của nhân dân,  tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Trị có những chuyển biến tích cực, ước tính trong năm 2011 đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể trên các lĩnh vực như sau:

1.      Tăng trưởng kinh tế

Giá trị Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2011 theo giá cố định 1994 thực hiện 3310 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế là 9,6% so với năm 2010 (mục tiêu 11 – 12%), trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,9% (mục tiêu 4-4,5%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 14,7% (mục tiêu 19,5 - 20%); khu vực dịch vụ tăng 9% (mục tiêu 9 – 9,5%).

Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2011 theo giá hiện hành thực hiện 13128 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản 27,8% (năm 2010: 28,9%); Công nghiệp – Xây dựng 36,5% (năm 2010: 35,4%); dịch vụ 35,7% (năm 2010: 35,8%)

Nguyên nhân không đạt mục tiêu về tăng trưởng là: Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đầu vụ Đông Xuân thời tiết không được thuận lợi, rét đậm, rét hại kéo dài đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thủy sản; vụ Hè Thu tiến độ gieo trồng bị chậm, hơn nữa chịu ảnh hưởng của cơn bão số 4 sản lượng hầu hết các loại cây trồng (trừ cây lúa) đều giảm so với năm 2010; cây cao su do chậm thay lá nên chậm cho khai thác mủ, một số diện tích bị ảnh hưởng, thiệt hại bởi lốc xoáy nên năng suất, sản lượng giảm so với năm 2010. Tính chung cả năm, mặc dù sản lượng một số cây trồng có tăng nhưng sản lượng lạc giảm 34,3%; rau các loại giảm sản lượng 2,1%; cao su giảm 0,9%; hồ tiêu giảm 2,5%; diện tích rừng trồng tập trung giảm 22,2%; trong khi sản lượng thủy sản chỉ tăng 0,3%; Vì vậy, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng không cao; riêng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là ngành xây dựng giá nguyên nhiên vật liệu, giá cước vân tải, giá nhân công tăng cao, các đơn vị xây dựng gặp khó khăn về vốn, tình hình giải ngân vốn chậm, trong điều kiện lãi suất ngân hàng tăng quá cao; hơn nữa thực hiên Nghị quyết 11/NQ-CP về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tỉnh đã có chủ trương cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nên giá trị tăng thêm ngành xây dựng đạt thấp làm cho tốc độ tăng trưởng của khu vực này chỉ đạt 14,7%. Tuy không đạt mục tiêu đề ra nhưng có thể khẳng định trong điều kiện chung của cả nước (phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng) và với những khó khăn riêng của địa phương, nhất là việc thực hiện NQ 11 thì việc đạt được tăng trưởng kinh tế (GDP) 9,6% là hết sức khả quan và là sự cố gắng lớn của địa phương.

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Tài chính

Thu ngân sách trên địa bàn ước tính năm 2011 thực hiện 1336,2 tỷ đồng, đạt 133,6% dự toán năm và tăng 17,8% so với năm 2010. Trong tổng thu ngân sách trên địa bàn, thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 507 tỷ đồng, đạt 144,9% dự toán năm, tăng 31,4% so với năm 2010.

Chi ngân sách địa phương năm 2011 thực hiện 4553 tỷ đồng, đạt 144,5% dự toán năm, tăng 18,8% so với năm 2010.

2.2. Ngân hàng

Tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện tốt chính sách tiền tệ trên địa bàn theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ và sự điều hành của Ngân hàng Nhà nước Trung ương. Công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng được chú trọng. Mạng lưới các tổ chức tín dụng được mở rộng; hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân được chấn chỉnh nhằm bảo đảm sự an toàn; công tác cung ứng tiền đảm bảo theo yêu cầu. Hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và có mức tăng trưởng khá, cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn vay trên địa bàn. Tổng huy động tiền gửi ước đạt 8.200 tỷ đồng, tăng 30,4% so với cuối năm 2010. Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế ước đạt 8.400 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2010; trong đó đã ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn ước đạt 53,6% tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ xấu chiếm 2,02% tổng dư nợ, tăng so với năm 2010 (0,84%).

3. Sản xuất Nông, Lâm  nghiệp, Thuỷ sản

1.1. Nông nghiệp            

- Trồng trọt:

Sản xuất cây hàng năm năm 2011 gặp nhiều khó khăn, vụ Đông Xuân do rét đậm rét hại kéo dài làm chậm tiến độ gieo trồng và làm cho nhiều diện tích lúa, hoa màu bị thiệt hại nặng phải gieo cấy lại. Vụ Hè Thu cũng chậm lịch thời vụ. Ngoài ra còn có sâu bệnh phát sinh gây hại.

Vụ Hè Thu, tuy cây lúa được mùa lớn nhưng cuối vụ, giai đoạn thu hoạch, Quảng Trị bị ảnh hưởng của mưa lớn dài ngày gây lũ lụt, làm một số diện tích lúa Hè Thu không thu hoạch kịp nên bị mất, một lượng lúa lớn không phơi khô được nên hư hỏng, giảm chất lượng, giá trị thấp.

Theo kết quả điều tra năng suất, sản lượng vụ Hè Thu, năng suất cây lúa đạt 42,6 tạ/ha, sản lượng 91916 tấn (so với Hè Thu năm 2010, năng suất tăng 1,7 tạ/ha, sản lượng tăng 4807 tấn). Tính chung cả năm, tổng diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm là 79967,8 ha, tăng 1,1% so với năm 2010. Cây lương thực 52131 ha, tăng 1%, trong đó lúa 48500 ha, tăng 1,0%. Cây ngô gieo trồng được 3630,7 ha, tăng 1,9%. Cây chất bột có củ 15475,9 ha, tăng 4,7%, trong đó cây sắn là 10739,2 ha, tăng 9,9%. Cây rau đậu các loại gieo trồng được 7009,7 ha, giảm 1%. Cây công nghiệp ngắn ngày gieo trồng được 4705,2 ha, giảm 6,5%, trong đó lạc 4491,4ha, giảm 6,1%.

Về năng suất, sản lượng: Sơ bộ cả năm, cây lúa năng suất đạt 46,3tạ/ha (tăng 3,1tạ/ha so với năm 2010), sản lượng 224675 tấn (tăng 4,1%); cây ngô năng suất giảm 6,5%, sản lượng giảm 4,8%. Sản lượng lương thực đạt 232544 tấn, tăng 3,8% so với năm 2010. Cây sắn năng suất 160,1 tạ/ha, sản lượng 171904 tấn, tăng 12,6%. Lạc năng suất 13,1 tạ/ha (giảm 5,4 tạ/ha), sản lượng 5894 tấn, giảm 32,3%.

- Cây lâu năm:

Quảng Trị chủ yếu là những loại cây công nghiệp: cao su, hồ tiêu, cà phê..., còn diện tích cây ăn quả là diện tích được trồng trong các vườn tạp của các hộ gia đình. Diện tích hiện có 29248,5 ha, tăng 1116,7 ha so với năm 2010. Cây công nghiệp lâu năm: 23902 ha; cây ăn quả lâu năm: 5192 ha, tăng 249 ha. Diện tích, sản lượng một số cây chủ yếu: cà phê 4809 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 3779, sản lượng cà phê nhân 6477 tấn, tăng 16,1% so với năm 2010; cao su 17088 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 9896 ha, sản lượng cao su mũ khô 14295 tấn, giảm 0,9%; cây tiêu diện tích 2003 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 1795 ha, sản lượng tiêu khô 1649 tấn, giảm 2,5%.

Hiệu quả cây lâu năm mang lại đã thấy rõ, nhất là cây công nghiệp lâu năm như cây cao su. Các loại cây trồng này đã thu hút một nguồn lao động rất lớn ở nông thôn, đây chính là các loại cây thực sự xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu trong nông thôn, nông nghiệp. Vì vậy, Quảng Trị xác định là cây trồng mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh.

- Chăn nuôi:

Năm 2011, ngành chăn nuôi tại Quảng Trị gặp nhiều khó khăn:

Tình hình dịch bệnh trên gia súc trong những năm gần đây diễn biến phức tạp nên ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư, phát triển chăn nuôi của bà con nông dân. Riêng trong năm, đã xảy ra dịch cúm gia cầm ở Hải Lăng, Thị xã Quảng trị và Gio Linh; dịch tụ huyết trùng, lỡ mồm long móng trâu bò ở Hướng Hóa. Giai đoạn đầu năm, do tình trạng thu gom lợn con xuất sang Trung quốc nên làm khan hiếm nguồn giống và đẩy giá lợn giống lên cao nên nhiều hộ không mua được giống lợn để nuôi dẫn đến đàn lợn thịt bị giảm.

Thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng cao cũng ảnh hưởng đến tổng đàn gia súc gia cầm. Ngoài ra do đồng cỏ thu hẹp, tình hình cơ giới hóa, chuyên canh hóa trong nông nghiệp cũng là nguyên nhân khiến tổng đàn trâu bò giảm.

Theo kết quả điều tra chăn nuôi 1.10.2011, tình hình chăn nuôi Quảng Trị như sau:

Đàn trâu: 26789 con, giảm 12,5% so với năm 2010; Đàn bò: 53025 con, giảm 15,6.

Đàn lợn: 229100 con, giảm 8,9%.

Đàn gia cầm: 1,8 triệu con, tăng 6,6% (Đối với đàn gia cầm, ngành chăn nuôi đang vận động khuyến khích bà con nông dân tập trung đầu tư để đẩy nhanh tốc độ phát triển tổng đàn).

Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 28826 tấn, tăng 7,5% so với năm 2010.

3.2. Lâm nghiệp:

Năm 2011, ngành lâm nghiệp Quảng Trị được sự hỗ trợ của các chương trình quốc gia, dự án trồng rừng sản xuất..., với sự cố gắng của các ngành chức năng, các chủ rừng đã phát triển và bảo vệ vốn rừng, từng bước khai thác có hiệu quả kinh tế rừng.

Về công tác trồng và chăm sóc, nuôi dưỡng rừng: thực hiện kế hoạch giao từ đầu năm, các Ban quản lý dự án lâm nghiệp và hộ dân đã có sự chuẩn bị tốt trong việc chuẩn bị như khoanh vùng trồng rừng, phát dọn thực bì, làm đất và chuẩn bị cây giống, phân bón các lọai và sẽ tiến hành trồng vào mùa mưa theo kế họach trồng rừng năm 2011 toàn tỉnh Quảng Trị.      

Diện tích rừng trồng tập trung ước thực hiện 5300ha, giảm 22,2% so với năm 2010; diện tích rừng chăm sóc ước thực hiện 19750 ha, tăng 14,6%.

Về khai thác gỗ và lâm sản: gỗ khai thác năm 2011 ước thực hiện 180000 m3 tăng 31,6% so với năm 2010. Lượng gỗ khai thác được trong năm chủ yếu là từ các đơn vị ngoài quốc doanh và các cá nhân (chiếm khoảng 65%).

Về tình hình thiệt hại rừng, đến thời điểm hiện nay trên địa bàn tỉnh  xảy ra 7 vụ cháy rừng với diện tích rừng bị cháy 50 ha, giá trị thiệt hại 323 triệu đồng.

3.3. Thủy sản: 

Với chủ trương duy trì và mở rộng diện tích nuôi tôm, nên bà con nông dân đã tích cực đầu tư tăng diện tích nuôi trồng trên tất cả các vùng, khuyến khích mở rộng hồ trên cát, chuyển đổi một số diện tích vùng sâu trồng lúa không hiệu quả sang mô hình lúa cá hoặc cá và thực tế được sự quan tâm hưởng ứng của bà con nông dân. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2011 có 3068 ha. Trong đó: nuôi cá 1907 ha, diện tích nuôi tôm 1128 ha.

Sản lượng khai thác thủy sản dự ước thực hiện trong năm 2011 là 17029 tấn tăng 0,8 % so với năm 2010. Sản lượng nuôi trồng đạt 7715 tấn, giảm 0,7%. Sản lượng cá thực hiện 3195 tấn, tăng 5,1%; nuôi tôm nước lợ thực hiện 4513 tấn, giảm 4,5%.

4. Công nghiệp

Sản xuất công nghiệp trong năm 2011 gặp không ít khó khăn, đó là phải chịu giá cả nguyên nhiên vật liệu đầu vào cao cộng với lãi suất ngân hàng biến động lớn. Tuy nhiên ngay từ đầu năm tỉnh đã chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất tập trung vào các sản phẩm có sức cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định, khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư sản xuất, tăng cường xúc tiến thương mại nên nhiều hợp đồng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp được ký kết. Tại các khu công nghiệp, các doanh nghiệp đã cố gắng vượt qua khó khăn, hoạt động kinh doanh có lãi, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao (giải quyết công ăn việc làm cho hơn 2000 lao động, đóng góp lớn vào ngân sách). Kết quả sản xuất công nghiệp đạt được như sau:

Giá trị sản xuất công nghiệp (Giá cố định 1994) thực hiện 1901 tỷ đồng, tăng 15,7% so với năm 2010. Trong đó: khu vực kinh tế nhà nước thực hiện 577 tỷ đồng, tăng 8,6%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước 1180 tỷ đồng, tăng 21,2%; khu vực  kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 145 tỷ đồng, tăng 4,3%.

Một số sản phẩm chủ yếu sản xuất năm 2011: quặng titan tăng 6,6%  so với năm 2010; đá khai thác tăng 4%; xi măng tăng 0,8%; gạch nung tăng 3,1%; nước máy tăng 5,1%; tinh bột sắn tăng 40,9%; phân NPK tăng 42%; Gỗ xẻ các loại tăng 16,9%; săm xe giảm 33,6%, nước giải khát tăng 13,3%; điện sản xuất giảm 7,3%; điện thương phẩm tăng 8,1%.

Trong năm 2011, Sở Công Thương đã có nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư và bước đầu đă có những tín hiệu khả quan. Một số tập đoàn và doanh nghiệp lớn đã đến khảo sát, lập dự án đầu tư vào những lĩnh vực tỉnh có thế mạnh như: sản xuất vật liệu xây dựng không nung từ nguồn nguyên liệu cát, đá vôi; sản xuất que hàn; phong địa nhiệt điện, chế biến gỗ rừng trồng, đặt biệt là các dự án động lực của tỉnh, cụ thể:

Phối hợp với Tổng Công ty Khí Việt Nam khảo sát địa điểm đưa khí vào bờ, xây dựng nhà máy xử lư khí và hệ thống phân phối khí cho các dự án trong KKT Đông Nam Quảng Trị; Phối hợp với các Vụ - BCT làm việc với các nhà đầu nước ngoài về kêu gọi đầu tư Nhà máy nhiệt điện 1200 MW và dự án Cảng biển Mỹ Thuỷ.

Làm việc với Tập đoàn Dệt may Việt Nam khảo sát, lựa chọn địa điểm xây dựng các nhà máy dệt may, sản xuất xơ visco tại KCN Tây Bắc Hồ Xá, CCN Đông Ái Tử, KKT Đông Nam Quảng Trị.

Các dự án đang làm thủ tục đầu tư: 02 dự án phong điện, 01 dự án địa nhiệt điện, dự án MDF2 của Tập đoàn cao su Việt Nam, dự án lắp ráp nông cụ cơ giới của Công ty TNHH Trung Sơn, sản xuất cửa nhựa của Công ty CP Đại Dương Xanh,...

5. Đầu tư và xây dựng

Về tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ

Công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực đầu tư được các ngành chức năng triển khai tích cực, đặc biệt là vốn ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Tỉnh đã triển khai nghiêm túc việc rà soát, cắt giảm và điều chuyển vốn đầu tư theo đúng tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ.

Ngày 11/3/2011, UBND tỉnh có Quyết định số 05/2011/QĐ-UBND ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trên cơ sở đó, tập trung chỉ đạo các Sở, Ban ngành, UBND các huyện, thành phố, thị xã triển khai thực hiện 5 nhóm giải pháp trọng tâm về chính sách tiền tệ, tài khóa, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, tăng cường bảo đảm an sinh xã hội và đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền. Đến nay, đã bước đầu đạt được một số kết quả sau đây:

Thực hiện nhóm giải pháp về tiền tệ, UBND tỉnh chỉ đạo hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng do Ngân hàng Nhà nước điều hành nhằm đảm bảo kiềm chế lạm phát. Công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng được tăng cường. Tình hình ngoại tệ ổn định hơn, tỷ giá ngoại tệ trên thị trường tự do và trong hệ thống ngân hàng không còn chênh lệch xa như trước, tỷ giá ổn định hơn. Lãi suất cho vay phổ biến 18,3% và cao nhất 21,6%/năm đối với vay vốn phục vụ nhu cầu sản xuất; hiện nay các ngân hàng thương mại đang thực hiện hạ lãi suất cho vay trong lĩnh vực sản xuất theo chỉ đạo của Ngân hàng Trung ương.

Về thực hiện nhóm giải pháp tài khóa, UBND tỉnh đã chỉ đạo rà soát, tính toán, xác định số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên ngân sách cấp tỉnh với số tiền là 6,5 tỷ đồng; đưa số tiết kiệm chi thường xuyên nhằm kiềm chế lạm phát toàn tỉnh lên 16,9 tỷ đồng. Đồng thời, chỉ đạo các Sở, Ban, ngành, đoàn thể, huyện, thành phố, thị xã thực hiện ngay việc tạm ngưng trang bị mới ô tô, mua sắm các tài sản có giá trị lớn, giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết; thực hiện tiết kiệm điện nước, văn phòng phẩm, không cử đoàn ra nước ngoài hoặc tham quan trong nước bằng ngân sách.

Về công tác quản lý giá, bảo đảm ổn định thị trường, UBND tỉnh đã chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh hiệu quả với tình hình buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả và gian lân thương mại; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đăng ký kinh doanh, việc niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết; đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tổ chức hệ thống phân phối, các kênh phân phối bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt, không để xảy ra tình trạng khan hiếm. Tổ chức cung ứng nguồn hàng và bán hàng bình ổn giá lưu động đến các vùng nông thôn, miền núi... Thực hiện việc hỗ trợ, ứng vốn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dự trữ và kinh doanh mặt hàng bình ổn giá.

Về nhiệm vụ bảo đảm đủ nguồn lực để thực hiện các chế độ, chính sách, các chính sách an sinh xã hội: đã bố trí kinh phí để thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg, thực hiện chính sách BHYT cho học sinh, sinh viên, BHYT cho người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và trẻ em dưới 6 tuổi, thực hiện chính sách đối với học sinh con hộ nghèo trên địa bàn chương trình 135, chính sách hỗ trợ cho ngư dân...

Đối với lĩnh vực đầu tư công, UBND tỉnh đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh việc phân bổ kế hoạch đầu tư nguồn vốn nhà nước năm 2011 nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công. Tỉnh đã tiến hành 3 lần điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư phát triển kế hoạch năm 2011 của 28 công trình, dự án với tổng số vốn là 41.560 triệu đồng, trong đó: Đình hoãn 20 công trình, dự án khởi công mới với số vốn là 25.900 triệu đồng; Giãn tiến độ: 8 công trình với số vốn là 15.660 triệu đồng. Thông qua việc rà soát, cắt giảm, điều chuyển kế hoạch vốn ĐTPT năm 2011 tỉnh đã bổ sung vốn cho 17 công trình cần đẩy nhanh tiến độ; trong đó tăng thêm 6 dự án hoàn thành so với kế hoạch đầu năm. Căn cứ Nghị quyết số 20/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 về kế hoạch phân bổ vốn đầu tư XDCB năm 2011 và danh mục công trình trọng điểm của tỉnh sử dụng vốn Ngân sách, ngày 25/10/2011 UBND tiếp tục có Quyết định số 2196/QĐ-UBND điều chỉnh vốn của 28 công trình, dự án với tổng số vốn là 42.437,728 triệu đồng để bổ sung vốn cho 26 công trình, dự án có tiến độ tốt hoặc thiếu vốn.

Về tình hình đầu tư

Dự ước vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011 thực hiện 6467 tỷ đồng, đạt 113,4% kế hoạch, tăng 36,4% so năm 2010. Nguồn vốn ngân sách nhà nước thực hiện 2810,5 tỷ đồng, chiếm 43,5%; nguồn vốn ngoài nhà nước thực hiện 3586 tỷ đồng, chiếm 55,4% và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 70 tỷ đồng, chiếm 1,1%.

Chia theo khoản mục đầu tư: đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện 5076 tỷ đồng, tăng 31,8% so với năm 2010; đầu tư khác thực hiện 1391 tỷ đồng.

Năm 2011 có các công trình quan trọng của tỉnh như: Công trình Thủy lợi Đá Mài – Tân Kim, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Kết cấu hạ tầng thành phố Đông Hà, Quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị.

Trong năm cũng đã có một số công trình hoàn thành đưa vào sử dụng như: Quảng trường và Nhà văn hoá trung tâm tỉnh; Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh, nhà máy sản xuất cơ khí Đoàn Luyến công suất 100 tấn sp/năm; trạm nghiên Klinke công suất 250.000 tấn/năm; nhà máy nghiền Zincol công suất 4.500 tấn sản phẩm/năm; nhà máy thủy điện Hạ Rào Quán công suất 6,4 MW; nhà máy thủy điện La La công suất 3MW; Kho cảng xăng dầu Cửa Việt có dung tích chứa 45.000m3, …

Hiện nay, trong hoạt động đầu tư, xây dựng vẫn còn vướng mắc đó là: Công tác kiểm kê, đền bù giải phóng mặt bằng còn vướng mắc; việc cấp vốn chưa kịp thời vẫn còn xảy ra ở một số công trình; nguồn vốn ngân sách địa phương còn khó khăn. Mặt khác giá vật liệu xây dựng (sắt, thép, gạch nung, xi măng...) có biến động tăng. Vì vậy đã làm chậm tiến độ xây dựng các công trình, một số công trình phải ngừng thi công, làm cho giá trị sản xuất xây dựng tăng chậm so với năm 2010.

Về công tác giải ngân, đến 31/10/2011, Kho bạc nhà nước tỉnh thực hiện 1600 tỷ đồng, đạt 64,5% KH năm 2011. Trong đó, vốn do TW quản lý 191 tỷ đồng, đạt 64,8% KH; vốn địa phương quản lý 1146 tỷ đồng, đạt 64,6% KH; vốn trái phiếu chính phủ 264 tỷ đồng, đạt 63,8% KH.

Về nguồn vốn ODA: đã tích cực chuẩn bị và phối hợp vận động tài trợ các dự án như: Dự án Phát triển cấp nước Đông Hà và vùng phụ cận (Ngân hàng phát triển Châu Á); Dự án hệ thống thu gom và xử lư nước thải thành phố Đông Hà (Ngân hàng thế giới); Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu (Ngân hàng thế giới), Dự án trang thiết bị y tế bệnh viện khu vực Triệu Hải (Hàn Quốc), dự án nâng cấp cơ sở ngành y tế tỉnh Quảng Trị (Italia)... Đến nay, vốn dự án ODA đã thực hiện giải ngân 146 tỷ đồng, đạt 73% kế hoạch năm 2011.             Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đang triển khai thực hiện 19 chương trình, dự án thuộc nguồn vốn ODA với tổng vốn đầu tư là 2813 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn tài trợ ODA là 2318 tỷ đồng và nguồn vốn đối ứng là 495 tỷ đồng.

Về nguồn vốn FDI: Công tác thu hút, thực hiện và quản lý khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn những khó khăn, tồn tại: công tác xúc tiến đầu tư vào Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo, các khu công nghiệp, khu du lịch và các địa bàn trong tỉnh được thực hiện với quy mô chưa sâu rộng, chưa thực sự thu hút được nguồn đầu tư nước ngoài vào địa bàn. Nguồn vốn bố trí cho công tác quảng bá xúc tiến đầu tư còn hạn chế; các hình thức thu hút đầu tư nước ngoài chưa đa dạng, thiếu tính chủ động; công tác quy hoạch đất đai, xây dựng kết cấu hạ tầng để thu hút đầu tư nước ngoài chưa kịp thời. Đối với Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo, hiện tại các khu quy hoạch tập trung, quỹ đất đã được bố trí hết cho các dự án đã đăng ký đầu tư, do đó quỹ đất để bố trí cho các dự án mới phải mở rộng thêm mới đáp ứng được.

Hiện nay, có 10 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng kư 47,97 triệu USD (767 tỷ VND), trong đó một số dự án đang triển khai hoạt động có hiệu quả: Nhà máy sản xuất nước uống tăng lực, Nhà máy sản xuất Săm - Lốp xe máy, Nhà máy sản xuất và lắp ráp xe máy - xe đạp điện Phương Nam, Dự án Fidfirst, Nhà máy lắp ráp điện thoại di động ICALL, dự án nuôi tôm thẻ chân trắng của Công ty Cổ phần C.P Việt Nam - Chi nhánh Quảng Trị …Ước tính năm 2011 vốn FDI thực hiện 3,5 triệu USD, bằng 100% so với năm 2010.

6. Thương mại – Giá cả - Dịch vụ

Tình hình hoạt động thương mại và dịch vụ năm 2011 diễn ra trong bối cảnh Nhà nước thắt chặt đầu tư công, thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, cùng với giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao đã ảnh hưởng một phần đến sức mua của nền kinh tế. Ngoài ra do nhu cầu sản xuất của nền kinh tế thế giới giảm nên xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn cũng bị ảnh hưởng. Kết quả hoạt động thương mại dịch vụ đạt được như sau:

6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ

Ước tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội năm 2011 thực hiện 12612 tỷ đồng, tăng 32,8% so với năm 2010. Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước thực hiện 1320 tỷ đồng, tăng 59,8%; thành phần kinh tế ngoài nhà nước thực hiện 11292 tỷ đồng, tăng 30,3%.

Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp thực hiện 10877 tỷ đồng, tăng 33,1%; khách sạn nhà hàng thực hiện 1111 tỷ đồng, tăng 30,9%; dịch vụ thực hiện 604 tỷ đồng, tăng 30,9%; du lịch lữ hành 20 tỷ đồng, tăng 25%.

6.2. Về tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu

Ước kim ngạch xuất khẩu năm 2011 thực hiện 59465 ngàn USD, giảm 6,2% so với năm 2010. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm: Cà phê 1440 tấn, giảm 46,824; phân NPK 9680 tấn, tăng 140,5; thực phẩm chế biến  7640 ngàn USD, tăng 3%; cao su 1180 tấn, giảm 15,4%; hàng hoá khác 24314 ngàn USD.

Ước kim ngạch nhập khẩu thực hiện 67160 ngàn USD, giảm 1,9%. Một số mặt hàng nhập khẩu là thực phẩm chế biến 8450 ngàn USD; hàng điện tử 8150 ngàn USD; máy móc thiết bị 22543 ngàn USD; gỗ xẻ các loại 25400 m3(24735 ngàn USD); thạch cao 145500 tấn (1560 ngàn USD).

6.3. Về giá cả thị trường

Giá cả thị trường 11 tháng đầu năm 2011 tăng 21,95% so với tháng 12 năm 2010. Trong đó, chỉ số giá một số nhóm hàng chủ yếu là: lương thực tăng 18,41%; thực phẩm tăng 33,18%; ăn uống ngoài gia đình tăng 26,51%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tăng 23,99%; giao thông tăng 21,37%; bưu chính viễn thông giảm 2,22%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 13,42%; may mặc, mũ nón, dày dép tăng 17,23%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 4,47%; thuốc dịch vụ y tế tăng 3,16%; giá vàng tăng 27,09%; Giá USD giảm 10,52%.

Xu hướng biến động giá là tăng cao trong quí I, chững lại cuối quí II, đặc biệt là đầu quý IV, chủ trương kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng, tốc độ tăng giá trong tháng 10 thấp nhất so với các tháng từ đầu năm đến nay. Trong thời gian tới giá tiêu dùng có khả năng tiếp tục tăng do nhu cầu tiêu dùng thường tăng vào cuối năm. Dự báo chỉ số giá tiêu dùng trên địa bàn Quảng Trị năm 2011 tăng 22%.

6.4. Giao thông vận tải

Ước doanh thu vận tải năm 2011 thực hiện 641 tỷ đồng tăng 26,6% so với năm 2010. Khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện 6849 ngàn người, tăng 3,9%; khối lượng hành khách luân chuyển thực hiện 670683 ngàn người.km, tăng 6,7%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển thực hiện 6070 ngàn tấn, tăng 104%; khối lượng hàng hoá luân chuyển thực hiện 415094 ngàn tấn.km, tăng 6,3%.

7. Văn hóa, xã hội

7.1.                 Lao động việc làm và đời sống dân cư

Theo kết quả điều tra lao động việc làm hiện nay tỷ lệ thất nghiệp toàn tỉnh là 1,9% (Trong đó: thành thị  2,8%, nông thôn 0,9%); tỷ lệ thiếu việc làm toàn tỉnh là 6,1% (Trong đó: thành thị  7,2%, nông thôn 4,7%).

Đạt được kết quả đó là nhờ công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề của tỉnh trong thời gian qua có hiệu quả hơn. Trong đó, các hoạt động tư vấn, tuyên truyền, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động tiếp tục được đẩy mạnh, phát triển mạnh ở các địa phương, cơ sở; Đề án xuất khẩu lao động đối với huyện nghèo theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ được phối hợp thực hiện tốt.

Năm 2011, các hoạt động thu hút đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xă hội trên địa bàn của tỉnh, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm đã giải quyết nhiều việc làm cho nhân dân trong tỉnh, ước tính cả năm giải quyết việc làm cho 9025 người, đạt 95% kế hoạch năm

Năm 2011, giá cả hàng hóa tăng cao cùng với thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư, đặc biệt là nông dân các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa và người lao động có thu nhập thấp ở khu vực thành thị. Tuy nhiên, được sự quan tâm của Chính phủ cùng với việc thực hiện tốt các chính sách an sinh, xã hội của các cấp, các ngành, các địa phương nên nhìn chung đời sống đại bộ phận dân cư tương đối ổn định.

Tỉnh đã tập trung quản lý, chỉ đạo và triển khai thực hiện các nhiệm vụ về giải quyết việc làm, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, xoá đói giảm nghèo; giải quyết chế độ kịp thời đối với các gia đình chính sách; thực hiện cứu trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác. Công tác xoá đói giảm nghèo luôn luôn được chú trọng, tỉnh đã có nhiều giải pháp và mô hình áp dụng cho từng địa phương, nhằm không ngừng đẩy lùi số hộ nghèo giảm xuống. Tỷ lệ  hộ nghèo tạm ước 17,2%, giảm 2,5% so với năm 2010 (kế hoạch giảm 2,5-3%. Hiện nay đang tiến hành điều tra rà soát lại hộ nghèo, hộ cận nghèo 2011 chưa có số liệu chính thức), (nguồn số liệu: Sở Lao động TBXH).

7.2.            Giáo dục

Vào đầu năm học 2011-2012 toàn tỉnh có 157 trường mẫu giáo mầm non; 162 trường tiểu học; 111 trường trung học cơ sở; 18 trường PTCS (cấp 1 + 2); 2 trường PTTH (2+3); 31 trường THPT.

Tổng số học sinh mầm non huy động là 30655 cháu. Trong đó, nhà trẻ 4082 cháu; mẫu giáo 26573 cháu.

Sè trÎ huy ®éng ®Õn c¸c líp nhµ trÎ, mÉu gi¸o ngµy cµng nhiÒu nh­ng phÇn lín tËp trung vïng thµnh thÞ vµ n«ng th«n cã kinh tÕ ph¸t triÓn, cßn vïng s©u, vïng nói cao, th× viÖc tæ chøc c¸c líp vµ huy ®éng ®­îc rÊt khã kh¨n.

Tổng số học sinh phổ thông năm học 2010-2011 là 130718 em, giảm 2,2% ( -2930 em) so với năm học 2010-2011. Trong đó: Tiểu học 56409 em, trung học cơ sở 45011 em, trung học phổ thông 29298 em.

Tính đến cuối năm học 2010-2011 tỉnh Quảng Trị có 210 trường đạt chuẩn Quốc gia, trong đó: mầm non 38 trường; Tiểu học 129 trường; THCS 40 trường và THPT 3 trường. Tỷ lệ kiên cố hóa phòng học toàn ngành đạt 68,42%.

Về đội ngũ cán bộ, giáo viên hiện nay, toàn ngành có 10799 biên chế, đảm bảo trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, tư cách đạo đức tốt, có ý thức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Để nâng cao chất lượng dạy và học, ngành đã chú trọng tiếp tục thi tuyển, lựa chọn cán bộ giáo viên có đủ trình độ năng lực chuyên môn, bổ sung cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.

Trong năm đã tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2010-2011. Toàn tỉnh có 11022 học sinh dự thi tốt nghiệp, trong đó: THPT 9834 học sinh, bổ túc THPT 1188 học sinh; Tỷ lệ tốt nghiệp bậc trung học phổ thông là 94,33% (Trong đó, tốt nghiệp THPT là 94,74%, giảm 1,72% so với năm 2010; tỷ lệ đổ tốt nghiệp bổ túc THPT là 94,28%, tăng 3,36%). Có 4 trường THPT tỷ lệ đổ tốt nghiệp 100% gồm: trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, trường THPT Thị xã Quảng Trị, trường THPT Vỉnh Linh, trường THPT dân tộc Nội trú tỉnh.

Năm học 2010-2011: toàn tỉnh có 30 học sinh lớp 12 đoạt giải quốc gia, trong đó có 2 giải nhì, 14 giải 3; lớp 5 có 1 HCV, 1HCĐ; lớp 9 có 1 HCV, 1 HCĐ. Thi học sinh giỏi cấp tỉnh có 1250 học sinh đoạt giải.

7.3. Văn Hoá -TDTT

Năm 2011 diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; nhiều ngày kỷ niệm lớn của quê hương đất nước như Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngày Thương binh liệt sĩ, Đón xuân Tân Mão; đặc biệt là đẩy mạnh Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Song song đó là nhiều hoạt động văn hóa, thể dục thể thao được tổ chức nhằm chào mừng các sự kiện và ngày lễ lớn trong năm.

Nổi bật là các hoạt động: Lễ hội giao thừa đêm 30 Tết tại Quảng trường Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh; Hội báo Xuân Tân Mão năm 2011 mừng Đảng, mừng Xuân với hơn 400 ấn phẩm báo chí, với 1.000 đầu báo từ Trung ương đến địa phương được trưng bày; Chương trình Liên hoan nghệ thuật Ba nước Đông Dương; Chương trình “ Huyền thoại Thành Cổ Quảng Trị”; tổ chức Lễ Tri ân và lưu danh liệt sỹ Thành Cổ Quảng Trị; Chương trình “Trường Sơn hội tụ” nhân dịp kỷ niệm 64 năm ngày Thương binh-Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2011); kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam...Bên cạnh đó là các hoạt động thi đấu thể thao diễn ra sôi nổi với các trò chơi dân gian cũng như hiện đại.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục được đẩy mạnh với các hoạt động: hoàn thành việc kiện toàn BCĐ phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thực hiện nếp sống văn hoá – văn minh đô thị. Phát động xây dựng làng văn hoá, hướng dẫn cơ sở xây dựng Quy ước xã văn hoá, tổ chức lễ công nhận các làng văn hoá, đơn vị văn hoá,…Qua 10 năm triển khai thực hiện phong trào, đến nay toàn tỉnh có 122762 gia đình được công nhận Gia đình văn hóa, tăng 4,9% so với năm 2010; 1732 làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị được công nhận làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị văn hóa, tăng 7,2% so với năm 2010.

Lĩnh vực thể dục thể thao có nhiều thành công như: việc tham gia thi đấu tại các giải cấp quốc gia đạt được 59 huy chương các loại (19 HCV, 15 HCB, 25 HCĐ); lọt vào chung kết giải bóng chuyền hạng A toàn quốc; giải Thể thao người khuyết tật toàn quốc tổ chức tại TP Hồ Chí Minh đạt 33 HCV, 23 HCB, 8 HCĐ.

Thực hiện tốt công tác phát triển thể thao quần chúng, tổ chức nhiều hoạt động TDTT như: Giải bóng chuyền, cầu lông Dân chính Đảng; Giải bóng chuyền, cầu lông Công đoàn viên chức tỉnh; Giải bóng chuyền thanh niên; Giải thể thao học đường; Giải bóng đá thiếu niên, nhi đồng; đặc biệt là giải việt dã “Cùng Sacombank chạy vì sức khỏe cộng đồng” với sự tham gia của 500 VĐV đến từ 34 đoàn trong tỉnh.

7.4. Y Tế:

Công tác Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân tiếp tục được quan tâm, tỉnh đã tập trung chỉ đạo ngành Y tế, các địa phương đẩy mạnh thực hiện các nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo dục truyền thông về phòng chống HIV/AIDS. Tăng cường công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, tổ chức thanh tra, kiểm tra về VSATTP trước, trong và sau Tết và các dịp lễ hội, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm. Tăng cường cơ sở vật chất cho ngành y tế. Đến nay toàn tỉnh có 2890 giường bệnh, tăng 31,4%. Kết quả hoạt động trên lĩnh vực y tế như sau:

Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh, ngay từ đầu năm, Sở Y tế đã chỉ đạo tăng cường giám sát, theo dõi và khống chế, xử lý kịp thời không để dịch bùng phát, lây lan trên diện rộng. Tính đến hết tháng 9, trên địa bàn tỉnh, phần lớn số ca mắc các bệnh truyền nhiễm đều  tăng so cùng kỳ năm 2010: trong đó, bệnh thương hàn, tăng 29,4%;  bệnh lỵ trực tràng tăng 28%; lỵ amip tăng 98,5%; tiêu chảy tăng 122%; cúm tăng 35,7% ; thủy đậu tăng 225%, đặc biệt bệnh do liên cầu lợn ở người có 5 ca mắc, tử vong 3 ca; uốn ván sơ sinh có 2 ca mắc và cả 2 ca tử vong. Tuy nhiên một số dịch bệnh đã được khống chế và giảm nhiều là sốt xuất huyết, giảm 96%; quai bị giảm 56%. Ngành y tế còn tăng cường kiểm dịch người và phương tiện qua biên giới, kiểm tra cúm AH5N1, không phát hiện trường hợp nhiễm bệnh.

Tính đến nay, toàn tỉnh đã ghi nhận 122 truờng hợp nghi ngờ mắc tay chân miệng, trong đó có 3 ca được xác định dương tính và chưa ghi nhận bất cứ trường hợp nào tử vong do bệnh TCM gây ra. Các địa phương ghi nhận nhiều trường hợp nghi mắc tay chân miệng có Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong. Các bệnh nhân đều thuộc nhóm trẻ em dưới 5 tuổi. Theo nhận định của ngành y tế, mặc dù vẫn đang tiếp tục diễn biến song tình hình dịch bệnh tay chân miệng ở Quảng Trị không quá phức tạp và vẫn được ngành y tế chủ động kiểm soát.

Các chỉ số tiêm chủng nhìn chung đạt kế hoạch đề ra, không có trường hợp tai biến do tiêm chủng.

Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em; chú trọng trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng, giám sát tăng trưởng của trẻ em. Tổ chức tốt ngày vi chất dinh dưỡng, số bà mẹ sau đẻ trong vòng 1 tháng uống vita min A: 93%; số trẻ em 6-36 tháng tuổi uống vitamin A: 99,6%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới năm tuổi năm 2011 là 19%, giảm 0,5% so với năm 2010.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được các cấp chính quyền cũng như các cơ quan chức năng quan tâm. 100% các huyện thị thành phố đã thành lập và kiện toàn ban chỉ đạo liên ngành về ATVSTP, 114/141 xã phường (80,8%) đã thành lập ban chỉ đạo liên ngành về ATVSTP. Toàn tỉnh đã thành lập được 93 đoàn kiểm tra liên ngành và chuyên ngành về ATVSTP. Công tác thông tin truyền thông được triển khai tốt, đa dạng trên nhiều loại hình; 100% các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm tuyến tỉnh được phổ biến tuyên truyền Luật an toàn thực phẩm. Do làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm nên đã góp phần hạn chế tình trạng ngộ độc thực phẩm. Trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc tập thể.

Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, đặc biệt là chính sách khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân vùng đặc biệt khó khăn, đối tượng chính sách. Ước tính cả năm, số bệnh nhân đến khám các cơ sở y tế là 1,42 triệu lượt người, tăng 1,8% so với năm 2010; số bệnh nhân điều trị nội trú 81 ngàn người, giảm 3%.

Tính đến 30/9/2011 trên địa bàn toàn tỉnh có 310  ca nhiễm HIV, 140 trường hợp phát bệnh AIDS, 55 trường hợp tử vong do AIDS. Trong đó, số mới phát sinh trong  năm bao gồm: nhiễm HIV: 83 trường hợp; phát bệnh AIDS: 19; tử vong: 3. Toàn tỉnh có 61/41 xã, phường, thị trấn (43%) phát hiện có người nhiễm HIV.

7.5. Dân số - KHH gia đình

Tổ chức bộ máy Dân số - Kế hoạch hóa gia đình từng bước được củng cố, nhất là tuyến xã. Hoạt động truyền thông và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - KHHGĐ được đẩy mạnh. Tỷ suất sinh thô năm 2011 là 18,6%o, giảm 0,5%o so với năm 2010 (KH là trên 0,5%o)

8. Tai nạn giao thông(Từ 25/12/2010 đến 10/11/2011)

Toàn tỉnh xảy ra 169 vụ tai nạn giao thông tăng 7% so với cùng kỳ năm trước; làm chết 157 người, tăng 8,3%; bị thương 127 người, tăng 9,5%; tổng tài sản thiệt hại 578 triệu đồng, tăng 38,9%.

Tóm lại: Năm 2011, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Trị đứng trước nhiều khó khăn: rét đậm, rét hại kéo dài từ đầu vụ Đông- Xuân; làm cho nhiều diện tích cây hàng năm phải gieo cấy lại, dịch cúm gia cầm H5N1, tụ huyết trùng, lỡ mồm long móng đã xảy ra một số địa phương, lạm phát tăng cao, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do lãi suất tín dụng và giá nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao, thiên tai bão, lụt gây thiệt hại về người và của...đã ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống xã hội. Nhưng với sự quan tâm chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của lãnh đạo tỉnh, các cấp, các ngành. Sự cố gắng khắc phục khó khăn của các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên đã chủ động giải quyết kịp thời, khắc phục khó khăn, nhờ vậy kết quả đạt được về kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Trị trong năm 2011 là khả quan.

 

CỤC THỐNG KÊ QUẢNG  TRỊ

 


Hoạt động trong ngành
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 05/11/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cơ quan Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2024 - 05/11/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê Quảng Trị - 28/10/2024
Công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 28/10/2024
Công khai dự toán ngân sách năm 2024 Cục Thống kê Quảng Trị - 18/10/2024
Quyết định về việc công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 11/10/2024
Quyết định về việc công khai quyết toán ngân sách năm 2023 của Cơ quan Cục Thống kê Quảng Trị - 30/08/2024
CÔNG BỐ CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 16/08/2024
Quyết định về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2024 của Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị - 01/07/2024
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Điều tra 53 DT thiểu số năm 2024

HỎI ĐÁP ĐIỀU TRA KT-XH
CỦA 53 DT THIỂU SỐ

Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê
Mạng riêng của ngành Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013