Page 12 - môc lôc
P. 12
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 27,96%;
trong đó, khu vực thành thị là 47,10% và khu vực nông thôn là 18,44%.
Ước tính tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi toàn
tỉnh năm 2023 là 2,76%; trong đó, khu vực thành thị là 3,27% và khu vực
nông thôn là 2,50%. Năm 2023 tỷ trọng lao động có việc làm tăng lên ở
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và khu vực dịch vụ; giảm xuống ở
khu vực công nghiệp - xây dựng, do khu vực công nghiệp - xây dựng trong
năm đang gặp khó khăn.
5.2. Giáo dục, y tế, an sinh xã hội
Năm học 2023-2024, quy mô, mạng lưới trường, lớp đã được tổ
chức, sắp xếp lại từng bước hợp lý, đúng quy định, đáp ứng đủ nhu cầu học
tập của con em trong tỉnh. Công tác huy động học sinh đến trường, phổ cập
giáo dục, xóa mù chữ đạt nhiều kết quả tích cực.
Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật
chất, kỹ thuật. Hiện nay, toàn tỉnh có 146 cơ sở y tế khu vực Nhà nước có
chức năng khám, chữa bệnh. Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng
cường về số lượng và chất lượng chuyên môn. Số bác sỹ bình quân trên
một vạn dân là 11,9 người, số giường bệnh bình quân là 34,4 giường/vạn
dân; 100% xã, phường, thị trấn có bác sỹ làm việc thường xuyên. Công tác
khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng.
Với mục tiêu “Không để ai ở lại phía sau”, công tác an sinh xã hội
được triển khai thực hiện kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2023 ước tính đạt 3.582,5
nghìn đồng. Ước tính tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm từ 9,14% cuối năm
2022 xuống còn 7,71% cuối năm 2023, giảm 1,43%.
Khái quát: Năm 2023, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong phát triển
kinh tế - xã hội: tình hình địa chính trị diễn biến phức tạp tác động tiêu cực
đến thương mại và đầu tư toàn cầu, giá cả một số mặt hàng thiết yếu,
nguyên vật liệu trên thị trường tăng đột biến, dịch bệnh ảnh hưởng không
nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, nhu cầu đầu tư cho phát triển là rất lớn
12