Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 101
Hôm nay: 299
Lượt truy cập: 1,071,647
Hoạt động Ngành Thống kê Bình Trị Thiên (1976-1989)
Cập nhật bản tin: 8/23/2011
            

HOẠT ĐỘNG NGÀNH THỐNG KÊ BÌNH TRỊ THIÊN (1976-1989)

Cán bộ công chức Cục Thống kê Bình Trị Thiên (Trụ sở 02- Hà Nội - Thành phố Huế)

I. HỢP NHẤT TỈNH BÌNH TRỊ THIÊN, CHI CỤC THỐNG KÊ BÌNH TRỊ THIÊN RA ĐỜI:
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới; cả nước độc lập thống nhất đi lên CNXH. Để làm chủ được tình hình đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với thực trạng và đặc điểm của 2 miền Nam - Bắc, huy động sức mạnh tổng hợp của các vùng lãnh thỗ và các địa phương...
Ngày 20/9/1975 Bộ chính trị TW Đảng ra Nghị quyết số 245 về hợp nhất 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và khu vực Vĩnh Linh thành tỉnh Bình Trị Thiên.
Ngày 23/12/1975 Ban chỉ đạo hợp nhất gửi công điện số 551/CĐ-HN cho các Tỉnh uỷ, UBND cách mạng các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và khu vực Vĩnh Linh thông báo một số việc cần làm trước mắt để chuẩn bị cho hợp nhất tỉnh. Ban chấp hành TW Đảng Quyết định thành lập Ban chỉ đạo hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên do đồng chí Lê Tự Đồng - Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Thừa Thiên Huế làm trưởng Ban và các đồng chí Hồ Sỹ Thản - Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị; Cổ Kim Thành - Bí thư Tỉnh Uỷ Quảng Bình; Trần Đồng - Bí thư Đảng Uỷ khu vực Vĩnh Linh làm thành viên.
Ngày 27/12/1975, Ban chỉ đạo hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên ra thông báo số 586/VP triển khai công tác thực hiện Nghị quyết TW về hợp nhất tỉnh. Xác định chức năng nhiệm vụ của tỉnh mới trên cơ sở đó dự kiến tổ chức bộ máy, biên chế, bố trí cán bộ và kế hoạch hợp nhất. Tổng hợp tình hình lấy ý kiến thảo luận báo cáo với ban chỉ đạo hợp nhất tỉnh.
Ngày 13/2/1976 Ban chỉ đạo hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên họp và nhất trí thành lập Ban tuyên truyền chuẩn bị tư tưởng cho việc hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên do đồng chí Trần Hoàn - Trưởng Ty văn hoá - thông tin Thừa Thiên Huế làm trưởng tiểu ban.
Ngày 02/3/1976 Văn phòng TW Đảng ra Thông báo số 05-TB/TW “ Thông báo ý kiến của Ban Bí Thư TW về một số vấn đề về phương hướng, nhiệm vụ và công tác trước mắt của tỉnh Bình Trị Thiên”. Thông báo nêu rõ: “ Phải sử dụng tốt nguồn nhân lực dồi dào và mọi năng lực sản xuất xã hội hiện có, kể cả sử dụng tốt lực lượng quân đội, triển khai cùng mọi mặt sản xuất, Nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, lưu thông phân phối...Để có đủ công việc làm cho nhân dân nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, đưa sản xuất và đời sống của nhân dân trở lại bình thường, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của kinh tế địa phương trước hết là mở mang nhanh thuỷ lợi”
“Để làm tốt tất cả các việc trên, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương phải có sự nỗ lực rất lớn, không ỷ lại, bị động trong chờ Trung ương. Các ngành ở TW cần phải thấy hết những khó khăn về mọi mặt sau chiến tranh của Bình- Trị - Thiên để có sự giúp đỡ thoả đáng kịp thời và có hiệu lực.”
Ngày 6/3/1976 Ban Bí Thư TW Đảng ra Quyết định số 2603QN-NS/TW. Chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ Bình Trị Thiên gồm 39 uỷ viên chính thức; Ban Thường vụ Tỉnh uỷ gồm có 13 đồng chí do đồng chí Nguyễn Hữu Khiếu làm Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Bùi San, đồng chí Nguyễn Húng và đồng chí Cổ Kim Thành làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ.
Từ ngày 02-04/4/1976 Ban chấp hành Đảng bộ Bình Trị Thiên tổ chức hội nghị lần thứ nhất nhằm quán triệt thông báo số 05/TB/TW của Ban Bí Thư và ra Nghị quyết phân công Tỉnh ủy viên chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác trong toàn tỉnh. Ngày 15/4/1976, Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên ra Chỉ thị số 239-CT/TU về việc hoàn thành hợp nhất tỉnh. Thường vụ Tỉnh Uỷ chỉ đạo các trưởng phó ban; trưởng phó ngành, đoàn thể và phân công Tỉnh uỷ viên theo dõi ngành, khối địa phương. Thường vụ phân công phụ trách khối chính quyền khẩn trương xúc tiến việc hình thành UBND cách mạng tỉnh. Hình thành các Ty và các phòng chuyên môn trực thuộc chính quyền tỉnh.
Đối với ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên Thường vụ Tỉnh uỷ phối hợp với Tổng cục Thống kê chỉ định đồng chí Lê Quang Liệu làm chi Cục trưởng, đồng chí Hoàng Anh Kỷ, Trần Nhân Khoái, Lê Văn Điệt làm phó Chi cục trưởng.
Ngày 01/5/1976 tại Quảng trường Phu Vân Lâu - Huế, Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Bình Trị Thiên công bố ra mắt trước toàn thể đồng bào và cán bộ trong tỉnh. UBND cách mạng tỉnh Bình Trị Thiên gồm 15 vị do ông Nguyễn Húng làm Chủ tịch và ông Ngô Đình Văn, Trần Đồng, Nguyễn Vạn, Nguyễn Văn Đài làm phó Chủ tịch, ông Lê Tư Sơn làm Uỷ viên Thường trực và 9 Uỷ viên UBND cách mạng tỉnh.
Từ ngày 01/5/1976 đến ngày 31/5/1976, các Ty, phòng, Ban, ngành đoàn thể của 3 tỉnh và khu vực Vĩnh Linh họp bàn tình hình hoạt động tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, những công việc đang tiếp tục làm và phương hướng nhiệm vụ năm 1976 của các ngành địa phương mình.
Ban chấp hành Đảng bộ và UBND cách mạng tỉnh Bình Trị Thiên ra lời kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sỹ và đảng viên trong tỉnh: “Tiếp tục phát huy truyền thống vẽ vang trong chiến tranh yêu nước, nêu cao ý chí phấn đấu cách mạng không dừng lại nghĩ ngợi, không lùi bước trước khó khăn ra sức lao động sản xuất và công tác quyết giành thắng lợi mới”.
Bình Trị Thiên hợp nhất, có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, quân sự, và tài nguyên khoáng sản phong phú, nhân lực dồi dào. Hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên sẽ có điều kiện khả năng để xây dựng một nền kinh tế toàn diện với nhiều thế mạnh: Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, thủ công nghiệp và nhiều ngành nghề truyền thống khác.
Trên dãi đất dài từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân 300 km, nơi rộng nhất 90 km với diện tích 18.430km2, dân số 1,8 triệu người, lực lượng lao động 657.760 người. Toàn tỉnh có 20 huyện, 1 thành phố, 2 thị xã, 352 xã, 1036 thôn. Đất canh tác 120.000 ha, trong đó có 2 vạn ha đất đỏ bazan để trồng cây công nghiệp (ở Tây Bắc Quảng Trị).
Diện tích đất trống đồi núi trọc có khoảng 74.000 ha thuận lợi cho chăn nuôi đại gia súc. Với bờ biển dài 340km có nhiều cá, tôm có thể khai thác trên 20 vạn tấn/năm và có 11 vạn ha đầm phá, ao hồ có khả năng phát triển nuôi cá tôm nước lợ và nước ngọt. Rừng chiếm 80% diện tích đất tự nhiện, rừng tự nhiên hơn 60 vạn ha, trữ lượng gỗ lớn. Đặc biệt đầu tư vốn lao động có thể khai thác được 35-40 vạn m3/năm và nhiều khoáng sản khác. Danh lam thắng cảnh: Đèo Ngang, đèo Lý Hoà, Hải Vân, Động Phong Nha, núi Ngự, sông Hương, Nhật Lệ, sông Danh, sông Bến Hải, Cửa Tùng, Thuận An, Cửa Việt, Lăng Cô, Bạch Mã, Cố Đô Huế...Những công trình văn hoá và di tích lịch sử cổ kính: cung điện nhà vua, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền qua nhiều triều đại, những chiến tích anh hùng chống Pháp và chống Mỹ: Thành Huế, Quảng Trị, Đồng Hới, Đường 9, Khe Sanh, Lao Bảo, Cửa Việt, Di tích Đôi Bờ Hiền Lương, Dốc Miếu, Cồn Tiên...
Nhân dân Bình Trị Thiên vốn có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Đặc biệt là từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và rất cần cù sáng tạo, kiên cường trong lao động sản xuất.
Một năm sau ngày giải phóng trước vô vàn khó khăn nhưng với bản chất cách mạng kiên cường, dày dặn kinh nghiệm, Đảng bộ và nhân dân Bình Trị Thiên đã vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từng bước tháo gỡ khó khăn, nhanh chóng khôi phục hậu quả chiến tranh ở vùng mới giải phóng, xây dựng chính quyền đoàn thể cách mạng từ tỉnh đến cơ sở, lãnh đạo nhân dân từng bước khôi phục phát triển kinh tế- văn hoá -xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, huy động sức mạnh toàn dân, xây dựng tỉnh Bình Trị Thiên vững mạnh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, sau giải phóng phạm vi hoạt động được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, chương trình công tác bề bộn trong lúc cán bộ thiếu và chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế mới; vùng mới giải phóng rất rộng lớn và phức tạp, tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa chuyển biến kịp với tình hình mới nên còn nhiều thiếu sót. Việc trấn áp, giáo dục nguỵ quân, nguỵ quyền, truy quét tội phạm không ra đầu thú chưa làm được thường xuyên, liên tục, thiếu biện pháp ngăn ngừa chặt chẽ; trong lúc đó ta dồn sức vào vùng mới giải phóng ở đồng bằng thì vùng căn cứ cách mạng cũ ở vùng sâu vùng xa thiếu cán bộ nên chưa quan tâm đúng mức. Các hoạt động củng cố chính quyền, phát triển kinh tế - văn hoá, giữ vững trật tự an ninh, làm trong sạch địa bàn, một số địa phương trong tỉnh còn nhiều hạn chế.
Từ hoang tàn, đổ nát sau chiến tranh đời sống và sản xuất của nhân dân đứng trước những bức xúc nặng nề, sau 1 năm đất nước thống nhất những thắng lợi mà Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên gặt hái được là kết quả rất đáng tự hào có ý nghĩa quan trọng tạo khí thế cách mạng sôi nổi tạo điều kiện căn bản để quân và dân Bình Trị Thiên bước vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế -xã hội, an ninh quốc phòng trong những năm tiếp theo thuận lợi hơn.
Bình Trị Thiên hợp nhất mang đầy đủ đặc điểm riêng có cả 2 miền Nam - Bắc lúc mới giải phóng, có 2 vùng với 2 đặc điểm khác nhau về kinh tế - xã hội. Quảng Bình, Vĩnh Linh từ năm 1954 đến năm 1975 đã đi trước 1 bước trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quảng Trị và Thừa Thiên Huế vừa mới được giải phóng khỏi sự thống trị áp bức của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân mới rất nặng nề trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá xã hội. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng “Quảng Bình, Vĩnh Linh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế hợp nhất càng tạo thành sức mạnh lớn, sức mạnh của cấp số nhân. Đảng bộ và nhân dân nhận thức đúng đắn được tình hình địa phương, biết phát huy sức mạnh tổng hợp đó, nhất định sẽ tạo được khí thế cách mạng mới”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi tỉnh Bình Trị Thiên vẫn gặp không ít khó khăn, phức tạp do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử của mỗi địa phương có sự khác nhau về kinh tế - xã hội, đặc biệt là hậu quả chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn tỉnh vẫn ở trong tình trạng còn hết sức lạc hậu, nền kinh tế đang là sản xuất nhỏ mang nặng tính tự cung tự cấp, sản xuất không đủ tiêu dùng, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn.....
Căn cứ vào tình hình đặc điểm của tỉnh, Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên đã đề ra các chủ trương, biện pháp, bước đi phù hợp để lãnh đạo nhân dân trong tỉnh cùng cả nước đi lên xây dựng CNXH, thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo XHCN đối với các huyện, thị, thành phố khu vực phía Nam sông Bến Hải, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà sau chiến tranh mau chống tiến kịp các tỉnh trong cả nước. Khẩu hiệu hành động của Đảng bộ và nhân dân Bình Trị Thiên lúc đó là: “Quyết tâm xây dựng Bình Trị Thiên thành một tỉnh giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng an ninh, đẹp về văn hoá”. Trong hơn 13 năm hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên, tỉnh Đảng bộ đã tổ chức 4 kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, tổ chức triển khai chỉ đạo thực hiện 3 kỳ kế hoạch 5 năm : 1976-1980, 1981-1985 và 1986- 1990.
Căn cứ tình hình đặc điểm hợp nhất tỉnh Bình Trị Thiên và tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh hợp nhất. Để đáp ứng yêu cầu thông tin thống kê kinh tế - xã hội phục vụ cấp uỷ, chính quyền các cấp ở địa phương và trung ương trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên XHCN.
Tổng cục Thống kê căn cứ Nghị quyết 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ chính trị và Thông tư số 233/TTg ngày 28/10/1975 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 19/TCTK-TCCB ngày 19/01/1976 về việc thành lập Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên. Thi hành Quyết định trên Lãnh đạo Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên đã hiệp y bàn bạc với cấp uỷ, chính quyền địa phương và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Tổng cục Thống kê sắp xếp tổ chức bộ máy mô hình văn phòng Chi cục và phòng thống kê huyện, thị xã, thành phố, đề bạt các đồng chí trưởng phòng Chi cục và trưởng phòng thống kê huyện, thị, thành phố.
1. Tổ chức bộ máy ngành thống kê Bình Trị Thiên
Thời kỳ đầu mới thành lập mô hình tổ chức bộ máy của Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên gồm: 11 phòng ở Văn phòng Chi cục và 22 phòng thống kê huyện, thị xã, thành phố.
Văn phòng chi cục:
1. Phòng Thống kê Tổng hợp hoạch toán thống nhất, phương pháp chế độ, đồng chí Nguyễn Văn Mân làm trưởng phòng.
2. Phòng Thống kê cân đối Tài chính, Ngân hàng và giá cả, đồng chí Hồ Đằng làm trưởng phòng.
3. Phòng Thống kê Nông- lâm nghiệp, thuỷ sản, đồng chí Lê Hồng Nam làm trưởng phòng.
4. Phòng Thống kê công nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện, đồng chí Nguyễn Văn Nghị làm trưởng phòng.
5. Phòng Thống kê xây dựng cơ bản - giao thông vận tải - bưu điện, đồng chí Lê Hiền làm trưởng phòng.
6. Phòng Thống kê Lao động- dân số- văn xã, đời sống, đồng chí Hà Lực làm trưởng phòng.
7. Phòng hành chính quản trị, đồng chí Phan Văn Nghệ làm trưởng phòng
8. Phòng tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua, đồng chí Phan Duy Thuyên làm trưởng phòng.
9. Phòng Thống kê Thương nghiệp - vật tư, đồng chí Nguyễn Văn Trưng làm trưởng phòng.
10. Phòng Máy tính, đồng chí Nguyễn Văn Lãy làm trưởng phòng.
11. Trường nghiệp vụ Thống kê, đồng chí Nguyễn Thanh Mai, trưởng phòng phụ trách.
Phòng Thống kê huyện, thị xã, thành phố:
1. Phòng Thống kê Minh hoá, đồng chí Cao Ngọc Tuấn làm trưởng phòng.
2. Phòng Thống kê Tuyên Hoá, đồng chí Lương Bằng làm trưởng phòng.
3. Phòng Thống kê Quảng Trạch, đ/c Nguyễn Xuân Hà làm trưởng phòng.
4. Phòng Thống kê Bố Trạch, đồng chí Lưu Văn Trọng làm trưởng phòng.
5. Phòng Thống kê Quảng Ninh, đ/c Trương Đình Cù làm trưởng phòng.
6. Phòng Thống kê Lệ Thuỷ, đ/c Nguyễn Thanh Cảnh làm trưởng phòng.
7. Phòng Thống kê TX Đồng Hới, đ/c Hoàng Ngọc Nga làm trưởng phòng.
8. Phòng Thống kê Vĩnh Linh; đồng chí Ngô Sáng làm trưởng phòng.
9. Phòng Thống kê Gio Linh; đ/c Trương Khắc Bình làm trưởng phòng.
10. Phòng Thống kê Triệu Phong, đồng chí Lê Văn Hào làm trưởng phòng.
11. Phòng Thống kê Hải Lăng, đồng chí Nguyễn Văn Bé làm trưởng phòng.
12. Phòng Thống kê Cam Lộ, đ/c Nguyễn Văn Hiên làm trưởng phòng.
13. Phòng Thống kê Hướng Hoá, đồng chí Lê Đường làm trưởng phòng.
14. Phòng Thống kê TX Đông Hà,đ/c Trương Công Hàm làm trưởng phòng.
15. Phòng Thống kê Phong Điền, đ/c Dương Viết Sức làm trưởng phòng.
16. Phòng Thống kê Quảng Điền, đ/c Trần Quang Bảo làm trưởng phòng.
17. Phòng Thống kê Phú Vang, đ/c Hoàng Bình Vinh làm trưởng phòng.
18. Phòng Thống kê Hương Trà, đồng chí Phạm Văn Lễ làm trưởng phòng.
19. Phòng Thống kê Hương Thuỷ, đ/c Nguyễn Khắc làm trưởng phòng.
20. Phòng Thống kê Phú Lộc, đ/c Nguyễn Thanh Chương làm trưởng phòng.
21. Phòng Thống kê TP Huế, đ/c Hoàng Ngọc Định làm trưởng phòng.
22. Phòng Thống kê A Lưới, đồng chí Bùi Duy Kiển làm trưởng phòng.
Tổng số cán bộ công nhân viên chức toàn ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên lúc hợp nhất (1/5/1976) có 202 người. Trong đó số cán bộ có trình độ đại học 32 người, trung học 47 người, số cán bộ nhân viên còn lại là sơ học và công nhân máy tính, lái xe, hành chính tạp vụ .... Ở văn phòng Chi cục có 86 người chiếm 43% trong tổng số CBCC trong toàn ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên. Số cán bộ là con em và số cán bộ đang làm công tác thống kê ở Quảng Trị chuyển nhập vào ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên (kể cả Chi cục và phòng thống kê huyện, thị xã), có 79 người chiếm 39% trong tổng số cán bộ công nhân viên chức toàn ngành Thống kê Bình Trị Thiên lúc mới nhập tỉnh, đây là lực lượng cán bộ nòng cốt của khu vực Quảng Trị, trong ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên của những ngày đầu nhập tỉnh. Ban lãnh đạo Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên, ban đầu có 4 đồng chí; Đồng chí Lê Quang Liệu - Chi cục Trưởng, đồng chí Hoàng Anh Kỷ, đồng chí Trần Nhân Khoái và đồng chí Lê Văn Điệt- phó Chi cục Trưởng. Từ năm 1984 Chi cục Thống kê được đổi tên thành Cục Thống kê, các chức danh Chi Cục trưởng, phó Chi cục Trưởng được đổi thành Cục trưởng, phó Cục trưởng theo Quyết định số 80/QĐ ngày 8/3/1984 của Tổng cục Thống kê.
Đồng chí Lê Quang Liệu giữ chức Chi Cục trưởng từ năm 1976-1985 nghỉ hưu.
Các đồng chí phó Chi Cục trưởng (phó Cục trưởng) trong thời kỳ sát nhập tỉnh Bình Trị Thiên gồm có: Đồng chí Hoàng Anh Kỷ - Phó Chi cục Trưởng Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên từ năm 1976 đến tháng 8 năm 1983 nghỉ hưu. Đồng chí Trần Nhân Khoái - Phó Chi cục Trưởng Chi Cục Thống kê Bình Trị Thiên đến năm 1981 chuyển ra Chi cục Thống kê tỉnh Nghệ An và cho đến năm 1983 nghỉ hưu. Đồng chí Lê Văn Điệt - Phó Chi Cục trưởng từ năm 1976 đến tháng 11/1984 nghỉ hưu. Đồng chí Phan Duy Thuyên - Phó Chi cục Trưởng từ năm 1982 đến năm 1988, đầu năm 1989 đề bạt Cục trưởng. Đ/c Hoàng Ngọc Định - Phó Chi cục trưởng từ năm 1983, Cục trưởng từ năm 1986 - 1988 đầu năm 1989 nghỉ hưu. Đ/c Nguyễn Văn Mân - Phó Chi cục trưởng từ tháng 6/1979 đi làm chuyên gia Campuchia đến tháng 3/1985 nghỉ hưu. Đồng chí Hà Lực - Phó Cục trưởng từ năm 1984 đi làm chuyên gia ở nước bạn Lào đến tháng 6 năm 1987 chuyển công tác về xí nghiệp cơ khí Bến Hải làm giám đốc. Đồng chí Nguyễn Văn Nghị làm phó Cục trưởng từ đầu năm 1989 sau đó chuyển sang UBDS - KHHGĐ Thừa Thiên Huế.
Điều đáng chú ý là đội ngũ cán bộ lãnh đạo Cục và trưởng phó phòng Thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, thị, thành phố, trưởng các đầu ngành đoàn thể chính trị văn phòng Cục Thống kê Bình Trị Thiên phần lớn là cán bộ Thống kê đã từng trải có kinh nghiệm ở Quảng Bình, khu vực Vĩnh Linh chuyển vào. Nhờ vậy so với các tỉnh khác ở miền Nam sau ngày giải phóng thì Bình Trị Thiên có tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ ổn định và hoạt động có nề nếp hơn.
Ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên không chỉ phấn đấu xây dựng bộ máy Thống kê địa phương thực sự lớn mạnh mà còn góp phần cùng toàn ngành Thống kê cả nước chi viện và thực hiện nghĩa vụ quốc tế làm chuyên gia thống kê giúp các nước bạn Lào, Campuchia. Những đồng chí đã đi làm chuyên gia thống kê cho các nước nói trên gồm có đồng chí: Lê Văn Điệt, Nguyễn Văn Mân Phó Cục trưởng, đồng chí Lê Hữu Pháp; Nguyễn Quốc Huy; Dương Viết Sức; Phan Văn Giao trưởng phòng đi chuyên gia Campuchia; đồng chí Hà Lực Phó Cục Trưởng; Hoàng Bình Vinh trưởng phòng đi chuyên gia thống kê Lào và có một số đồng chí đi làm cán bộ chủ chốt các huyện tỉnh phía Nam như: Đồng chí Phan Văn Giao về làm trưởng phòng thống kê huyện Đức Linh tỉnh Thuận Hải, đồng chí Từ Xuân Tiến làm trưởng phòng Thống kê huyện Bắc Bình tỉnh Thuận Hải, đồng chí Phan Ngọc Sáng làm trưởng phòng Tổ chức cán bộ, sau đó Tổng Cục bổ nhiệm làm Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Đắc Lắc.
Như vậy, lãnh đạo Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên đã sớm xây dựng mô hình tổ chức, ổn định bộ máy, để triển khai thực hiện nhiệm vụ kế hoạch công tác chuyên môn của Tổng cục Thống kê và của lãnh đạo địa phương giao.
Ở khu vực Quảng Trị có 7 phòng thống kê huyện, thị, biên chế cán bộ lúc đầu mới nhập tỉnh mỗi phòng thống kê huyện chỉ có từ 3-4 người.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (từ ngày 14-20 tháng 12 năm 1976) đã xác định: “xây dựng huyện vững mạnh, thật sự trở thành đơn vị kinh tế nông, công nghiệp; lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động một cách cụ thể và kết hợp công nghiệp và nông nghiệp kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể”.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ nhất đã chỉ rõ: “Lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, gắn liền với xây dựng hợp tác xã và xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông, công nghiệp hoặc lâm nông - công nghiệp tiến lên theo hướng sản xuất lớn XHCN. Đẩy mạnh kinh tế quốc doanh, tập thể vững mạnh đồng thời hướng dẫn kinh tế gia đình đi đúng hướng”.
Thi hành Chỉ thị của Bộ chính trị và Nghị quyết của Hội đồng Chính Phủ, ngày 5/3/1977, Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên đã ra Nghị quyết số 02/NQ về việc điều chỉnh sát nhập một số huyện trong tỉnh, thực hiện chủ trương trên, phòng thống kê các huyện, thị xã, thành phố cũng được tổ chức lại từ 22 phòng xuống còn 14 phòng thống kê huyện, thị xã, thành phố trong cả tỉnh.
Khu vực Quảng Trị có các đơn vị nhập huyện là: Vĩnh Linh sáp nhập với Gio Linh và Cam Lộ, lấy tên huyện là huyện Bến Hải; huyện Triệu Phong sát nhập với huyện Hải Lăng và thị xã Quảng Trị lấy tên là huyện Triệu Hải. Từ đó địa bàn Quảng Trị có 4 đơn vị hành chính cũng là 4 phòng thống kê huyện: Bến Hải do đồng chí Ngô Sáng làm trưởng phòng, Triệu Hải do đồng chí Phan Ngọc Sáng làm trưởng phòng, Đông Hà do đồng chí Trương Công Hàm làm trưởng phòng, Hướng Hoá do đồng chí Lê Đường làm trưởng phòng.
Bộ máy tổ chức thời kỳ 1976 - 1989 đã có những bước phát triển mới tích cực, nhưng cũng bộc lộ một số khuyết nhược điểm như số lượng cán bộ công nhân viên chức đông, cơ cấu cán bộ mô hình tổ chức chưa hợp lý còn quá cồng kềnh, nhiều Bộ ngành từ TW đến địa phương cũng nằm trong hoàn cảnh chung như vậy. Trước thực trạng chung đó để khắc phục tinh giảm đầu mối biên chế cán bộ và quỹ lương, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác, tiết kiệm ngân sách Nhà nước, ngày 12/12/1987 Ban Bí Thư TW Đảng ra Thông báo số 46/TB/TW về việc sát nhập một số Bộ, Ngành và giảm đầu mối tổ chức ở các cơ Sở Ban ngành ở các địa phương trong cả nước. Tổng cục Thống kê cũng nằm trong diện phải sắp xếp lại đầu mối ở địa phương đã tiến hành chuyển giao Cục Thống kê sang UBND tỉnh quản lý, phòng Thống kê huyện chuyển giao cho UBND huyện quản lý và sát nhập vào UBKH nhà nước cùng cấp, hàng năm Tổng cục Thống kê chỉ giao kế hoạch công tác và quản lý hướng dẫn về nghiệp vụ. Thực hiện chủ trương này từ đầu năm 1988 cho đến khi chia tỉnh (01/7/1989) Cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên được chuyển giao cho UBND tỉnh quản lý và sát nhập vào Uỷ ban kế hoạch nhà nước tỉnh. Tuy sát nhập vào một cơ quan nhưng thực tế cơ quan Thống kê từ tỉnh đến huyện lúc đó vẫn hoạt động có tính chất độc lập, vẫn có bộ máy tổ chức cán bộ, đào tạo, hành chính quản trị và có tài khoản riêng để hoạt động và thay đổi lại tên gọi như trước đây là Chi cục Thống kê. Mô hình tổ chức của các phòng được sắp xếp lại gọn hơn. Ở huyện thị xã cũng bàn giao lại cho UBND huyện thị xã quản lý và sát nhập với phòng kế hoạch gọi chung là phòng kế hoạch - thống kê.
Qua một năm rưỡi chuyển giao về địa phương quản lý tổ chức hoạt động của ngành Thống kê Bình Trị Thiên bên cạnh những mặt thuận lợi thì ít, nhưng đã bộc lộ nhiều nhược điểm bất cập, cán bộ xáo trộn giữa nhiệm vụ được giao và biên chế cán bộ, quỹ lương, kinh phí nghiệp vụ hàng năm thiếu đồng bộ, việc phối hợp giữa ngành dọc và UBND các cấp ở địa phương trong chỉ đạo thực hiện chương trình kế hoạch công tác có nhiều khó khăn dẫn đến tính kịp thời, khách quan, chính xác, đẩy đủ của thông tin Thống kê bị hạn chế.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: để giúp cho cán bộ nắm vững nghiệp vụ chuyên môn, ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên từ tỉnh đến huyện, xã, hợp tác xã có nhiều cố gắng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi trước mắt, góp phần nâng cao chất lượng công tác chuyên môn của ngành. Chi cục Thống kê tỉnh và phòng thống kê huyện, thị, thành phố đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ cho lực lượng cán bộ làm công tác thống kê cơ sở. Đặc biệt ngành Thống kê Bình Trị Thiên đã phối hợp với Trường cán bộ thống kê TW tổ chức một lớp đào tạo trung học Thống kê tại chức cho cán bộ trong và ngoài ngành tại thành phố Huế từ năm 1986 - 1987. Lớp học đã thu hút số đông cán bộ công nhân viên chức học trái ngành và một số cán bộ chưa qua đào tạo của ngành Thống kê Bình Trị Thiên (văn phòng Cục và phòng Thống kê huyện thị, thành phố và các cán bộ làm công tác thống kê ở các xí nghiệp, công ty trên địa bàn....)
Như vậy công tác tổ chức cán bộ đào tạo của ngành Thống kê trong thời kỳ này có vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển của ngành Thống kê về nhiều mặt. Đặc biệt là đã góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng tâm là công tác chuyên môn và góp phần chi viện cho các tỉnh bạn, huyện bạn phía Nam và tham gia làm nghĩa vụ quốc tế ở các nước bạn Lào, Campuchia.
2. Ngành thống kê Bình Trị Thiên phục vụ nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc:
Ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã khắc phục mọi khó khăn, tích cực phấn đấu vươn lên, luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh của ngành để kịp thời phục vụ cho công tác quản lý chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các cấp, các ngành một cách có hiệu quả, nổi bật là:
- Phục vụ công cuộc cải tạo XHCN và khôi phục phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh. Thời gian này ngành Thống kê tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện nhiều cuộc điều tra, kiểm kê thu thập số liệu tình hình kịp thời làm các báo cáo Thống kê theo chủ trương chung của Đảng, Nhà nước các cấp và của Tổng cục Thống kê phục vụ cho công tác cải tạo XHCN của các huyện, thị ở phía Nam của tỉnh và thành phố Huế. Đặc biệt trong 2 năm 1977-1978 ngành Thống kê Bình Trị Thiên đã tập trung lực lượng cán bộ cho việc triển khai chủ trương của Chính phủ về việc “ kê khai đăng ký nhà cửa tại các đô thị thuộc các tỉnh phía Nam sông Bến Hải trở vào” theo Quyết định số 74/CP ngày 23/3/1977 của Hội đồng Chính phủ và các Thông tư số 2114-LB/XD-TK ngày 25/8/1977, số 2110-LB/XD-TK ngày 15/9/1977 của Liên Bộ xây dựng - Tổng cục Thống kê hướng dẫn thi hành Quyết định số 74/CP triển khai thực hiện chế độ báo cáo nhanh và báo cáo thống kê hàng tháng về tình hình cải tạo và xây dựng XHCN áp dụng cho các tỉnh miền Nam theo Quyết định số 675/TCTK-PPCĐ ngày 4/12/1976; số 439/TCTK-PPCĐ ngày 24/6/1978; Số 483/CTTK-PPCĐ ngày 8/9/1978 của Tổng cục Thống kê. Các báo cáo thống kê của ngành Thống kê Bình Trị Thiên đã phản ánh được những nét cơ bản về diễn biến tình hình trong quá trình thực hiện công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội cả về ưu nhược điểm cũng như nguyên nhân để giúp lãnh đạo tỉnh và các cấp các ngành có biện pháp chỉ đạo sát đúng theo yêu cầu. Ngành đã cử một số cán bộ có năng lực và trình độ tham gia Ban cải tạo công thương nghiệp của tỉnh như các đồng chí: Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Văn Trưng, Trần Thị Cần, Phạm Thị Mảng. Có thể nói ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã góp phần tích cực vào kết quả chung của tỉnh trong công tác cải tạo và xây dựng XHCN ở các địa phương phía Nam trong tỉnh hoàn thành cơ bản vào cuối năm 1981, sớm hơn so với kế hoạch TW đề ra.
Ở khu vực các huyện phía Bắc (Quảng Bình, Vĩnh Linh) đã trải qua thời kỳ xây dựng XHCN, song do ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và trước yêu cầu của tổ chức lại sản xuất trên địa bàn cấp huyện theo hướng sản xuất lớn XHCN đã đặt ra cho các huyện, thị nhiều nhiệm vụ và mục tiêu cần phải tích cực chủ động thực hiện tổ chức lại sản xuất XHCN. Bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của từng địa phương đơn vị trong tỉnh, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và của ngành dọc, ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên, đặc biệt là cán bộ Thống kê của các huyện phía Bắc tỉnh đã kịp thời nắm bắt tương đối đầy đủ số liệu tình hình về xây dựng huyện, củng cố xây dựng HTX trong nông nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng... để tham mưu phục vụ cho lãnh đạo địa phương chỉ đạo nền kinh tế địa phương.
Kết quả trong 5 năm (1976-1980) công tác cải tạo công thương nghiệp đã thu được kết quả thắng lợi. Giai cấp tư sản thương nghiệp về căn bản đã bị xoá bỏ, kinh tế tư bản tư doanh trong công nghiệp,vận tải, xây dựng được cải tạo bằng nhiều hình thức, theo số liệu thống kê lúc đó cho thấy đã xây dựng 5 xí nghiệp và HTX công tư hợp doanh, 2 xí nghiệp quốc doanh, tổ chức được 120 HTX thủ công nghiệp, 300 tổ hợp, thu hút 20000 thợ thủ công và trên 1 vạn người buôn bán nhỏ vào mạng lưới thương nghiệp dịch vụ ở các phường, xã. Có 15000 hộ đã được cấp giấy phép kinh doanh. Cơ bản hoàn thành cải tạo và quản lý nhà đất cho thuê.
Thông qua cải tạo XHCN, đã bước đầu củng cố tổ chức, quản lý sản xuất xã hội nói chung và ngành Thống kê cũng đi sâu nắm bắt tình hình đầu mối hoạt động sản xuất kinh doanh xây dựng củng cố tổ chức mạng lưới thống kê các cấp để thực hiện các chế độ báo cáo thống kê định kỳ và điều tra thống kê đột xuất thường xuyên ở các đơn vị cơ sở, phục vụ lãnh đạo tỉnh, tăng cường định hướng phát triển kinh tế xã hội hàng năm, 5 năm qua các thời kỳ.
- Phục vụ công tác xây dựng, kiểm tra thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và các kỳ kế hoạch 5 năm
Trong những năm sát nhập tỉnh Bình Trị Thiên (1976 - 1989), tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, Bình Trị Thiên nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề do hậu quả chiến tranh để lại, do bị thiên tai và nhiều yếu kém trong công tác quản lý nên sản xuất phát triển không ổn định, rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, đời sống xã hội gặp nhiều khó khăn, mất cân đối giữa cung và cầu hết sức nghiêm trọng.
Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách mới như: Chỉ thị số 100/CT-TW của Ban Bí thứ TW Đảng về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong HTX sản xuất nông nghiệp”; chủ trương xây dựng cấp huyện thành đơn vị kinh tế, xây dựng và phát triển các vùng kinh tế mới, chính sách giá - lương - tiền ...Trước tình hình nói trên, yêu cầu thông tin thống kê phục vụ Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các cấp các ngành để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tổ chức theo dõi, triển khai việc thực hiện các chủ trương chính sách, phục vụ cho các kỳ Đại hội Đảng và các kỳ họp Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh. Nhận thức đầy đủ trách nhiệm của ngành, với chức năng nhiệm vụ được giao, hàng năm ngành Thống kê Bình Trị Thiên đã quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác đảm bảo thông tin thống kê đáp ứng kịp thời, đầy đủ theo yêu cầu của lãnh đạo tỉnh và báo cáo lên Tổng cục Thống kê về những kết quả thông tin thống kê đó.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn, bên cạnh duy trì thực hiện tốt các chế độ báo cáo và điều tra thống kê định kỳ, thường xuyên, lãnh đạo Cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã tập trung chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ có tính chất trung tâm đột xuất nỗi lên trong từng thời kỳ nhằm thoả mãn nhu cầu nghiên cứu, khai thác thông tin của lãnh đạo, nhờ vậy mà nâng cao được uy tín của ngành.
Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đối với tỉnh Bình Trị Thiên được xác định là mặt trận hàng đầu, nên tỉnh đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện nhằm giải quyết lương thực thực phẩm cho xã hội tăng cường nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các chủ trương lớn rất quan trọng có tác dụng lớn đến phát triển nông nghiệp như Chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư TW Đảng năm 1981; Nghị quyết 10/NQ-TW của Bộ Chính trị năm 1988 về “Đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp” nhằm xoá bỏ chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế hạch toán kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp... là những vấn đề được ngành Thống kê Bình Trị Thiên đi sâu theo giỏi phản ánh kịp thời. Trong nông nghiệp thời kỳ này công tác thống kê tiến độ sản xuất vẫn được ngành Thống kê thực hiện đến hết năm 1988 mới bàn giao sang ngành nông nghiệp đảm nhận (Theo Thông tư số 06/ TTLB ngày 16/12/1988 của Liên Bộ Tổng cục Thống kê - Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm).
Thông qua các báo cáo thống kê về tiến độ sản xuất nông nghiệp, 5 ngày một lần, báo cáo thu chi thanh quyết toán trong các HTX nông nghiệp, báo cáo kết quả của các cuộc điều tra về diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng, điều tra chăn nuôi gia súc, gia cầm. Điều tra lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật trong các hợp tác xã. Điều tra khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100, theo khoán 10...Ngành Thống kê đã cung cấp nhiều thông tin một cách có hệ thống qua từng năm theo từng thời kỳ. Kết thúc thực hiện kế hoạch 5 năm 1976-1980 cùng với sự tăng trưởng và phát triển của các ngành, các lĩnh vực khác. Trong nông nghiệp, một trong những chỉ tiêu quan trọng số một đó là: “chỉ tiêu sản lượng lương thực” qua kết quả điều tra ngành Thống kê Bình Trị Thiên đã kịp thời báo tin vui với lãnh đạo tỉnh, năm 1980 toàn tỉnh Bình Trị Thiên vượt qua ngưỡng cửa 40 vạn tấn lương thực. Từ kết quả đó, tỉnh Bình Trị Thiên đã phát động tinh thần hăng say phấn đấu thâm canh tăng vụ của các địa phương góp phần làm cho sản xuất lương thực của cả tỉnh Bình Trị Thiên không ngừng phát triển, năm sau cao hơn năm trước theo báo cáo của Cục Thống kê sản lượng lương thực toàn tỉnh Bình Trị Thiên năm 1981 đạt trên 42 vạn tấn, năm 1982 đạt trên 46 vạn tấn, năm 1984 đạt trên 46,3 vạn tấn ...Nhìn chung nhờ có những thay đổi về chính sách, cơ chế quản lý nhất là cơ chế khoán 10 và tăng cường chỉ đạo kiểm tra, đầu tư thâm canh tăng vụ, về giống, phân bón, phòng trừ sâu bệnh, thuỷ lợi nên sản xuất lương thực ngày càng phát triển ổn định, năng xuất sản lượng các loại cây trồng tăng nhanh. Tuy nhiên, cũng có những địa phương đơn vị chuyển biến chậm còn nhiều khuyết điểm trong chỉ đạo sản xuất cũng được ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên phản ánh một cách trung thực qua số liệu thu thập được để giúp lãnh đạo các cấp, các ngành kịp thời uốn nắn.
Trong sản xuất công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, chủ trương của tỉnh Bình Trị Thiên lấy mục tiêu phục vụ nông nghiệp, thực hiện hai chương trình kinh tế là: “Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” để phát triển đời sống xã hội.
Ngoài việc tập trung cho đầu tư trung tâm tỉnh lỵ là thành phố Huế, tỉnh chủ truơng phát triển các khu công nghiệp ở 2 thị xã Đồng Hới và Đông Hà. Một số ngành công nghiệp địa phương như: Công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến thực phẩm đã bước đầu hướng vào khai thác tiềm năng thế mạnh sẵn có của địa phương. Sản phẩm sản xuất ra ngày một tăng với nhiều chủng loại phong phú đã đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của sản xuất và đời sống nhân dân trong tỉnh. Nhiều mặt hàng phục vụ cho nông nghiệp như công cụ cải tiến, trục tuốt lúa, xe ba gác, xe trâu bò kéo, bình bơm thuốc trừ sâu, lưỡi cày, liềm hái, cuốc, rựa, bơm nước... Hàng hoá phục vụ tiêu dùng đời sống như: Soong, chão các loại, bếp đun nấu, thực phẩm chế biến cá, thịt, xà phòng, giấy bút, xe đạp, phụ tùng xăm lốp xe đạp, tàu thuyền vận tải và đánh cá, mộc, nề dân dụng, các sản phẩm vật liệu xây dựng như: xi măng, gạch ngói, hàng phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng như các loại thuỷ sản đông lạnh, mặt mây, chỗi đót, rượu, bia, kẹo bánh và hàng nông sản ...
Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh như Quyết định số 25/CP (năm 1981) của Hội đồng Chính phủ về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh; tiếp theo là Quyết định số 26/CP của Hội đồng Chính phủ về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vật dụng hình thức tiền lương trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của nhà nước; Nghị quyết số 16/NQ-TW (năm 1988) Của Bộ Chính trị về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Để phù hợp với các chủ trương cơ chế quản lý mới, thời kỳ này Tổng cục Thống kê đã ban hành nhiều chế độ báo cáo mới trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng cơ bản như Thông tư số 524/TCTK-PPCĐ ngày 29/4/1981 của Tổng cục Thống kê hướng dẫn công tác hoạch toán và Thống kê trong các xí nghiệp quốc doanh theo Quyết định số 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ; Quyết định số 612/TCTK-PPCĐ ngày 28/8/1981 của Tổng cục Thống kê ban hành chế độ báo cáo thống kê định kỳ chính thức tháng về công nghiệp xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, cung ứng vật tư 31/12/1983 của Tổng cục Thống kê. Ban hành biểu mẫu báo cáo thống kê định kỳ chính thực của HTX chuyên sản xuất tiểu thủ công nghiệp, sản xuất muối và khai thác lâm sản...
- Thực hiện các chương trình kế hoạch công tác hàng năm của ngành. Cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã tổ chức triển khai các cuộc điều tra định kỳ và đột xuất và tổ chức việc theo dỏi, kiểm tra đôn đốc các địa phương, cơ sở trong tỉnh. Chấp hành chế độ báo cáo thống kê, kế toán. Tiến hành xử lý số liệu, tổng hợp các báo cáo thống kê theo đúng chế độ quy định. Báo cáo của ngành đã kịp thời phản ánh khá toàn diện về kết quả sản xuất kinh doanh của các địa phương đơn vị cơ sở trong thời kỳ này. Đặc biệt đã đi sâu phản ánh những điển hình tiên tiến của các cơ sở trong việc “Bung sản xuất” theo các chủ trương mới của Đảng, Nhà nước. Mặt khác cũng chỉ ra những mặt yếu kém của các đơn vị trong hoạt động sản xuất kinh doanh như chất lượng sản phẩm còn thấp, tốc độ phát triển chậm, giá thành cao, tình trạng bao cấp tràn lan cả đầu vào và đầu ra theo hình thức áp đặt thông qua mạng lưới phân phối của nhà nước, hiệu quả sản xuất kém...
Trong lĩnh vực lưu thông phân phối, tài chính - tín dụng thời kỳ này nổi lên tình hình chung là nền kinh tế trong tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu, giá cả không ổn định. Năm 1986 so với năm 1985 chỉ số lạm phát ở mức 571,3 %, từ năm 1985- 1990 chỉ số lạm phát lên tới 154,4 lần. Hoạt động thương mại chủ yếu làm chức năng tiếp nhận và phân phối hàng hoá TW cấp cho các đối tượng theo định lượng, đồng thời thu mua lại hàng nông sản, hàng công nghiệp theo nghĩa vụ giao nộp. Để ổn định tình hình sau khi có Nghị quyết của TW lần thứ 13 (khoá V) bàn về chính sách giá - lương - tiền. Thường vụ Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên đã có Nghị quyết số 23/NQ-TV ngày 25/7/1985 về tổ chức làm thí điểm việc trả lương bằng hiện vật cho tất cả các đối tượng hưởng lương, phụ cấp và ăn theo trên địa bàn thành phố Huế. Phạm vi trả lương bằng 9 mặt hàng (gạo, thịt, cá, nước mắm, chất đốt, đường kính, mì chín, xà phòng giặt, vải sợi bông) được đưa vào lương. Kết quả bước đầu thực hiện Nghị quyết TW lần thứ 8 về giá-lương- tiền trên địa bàn toàn tỉnh Bình Trị Thiên đã góp phần cải thiện được đời sống của nhân dân nhất là cán bộ, công nhân viên chức ở thời kỳ đầu. Tuy nhiên cuộc cải cách “giá - lương- tiền” năm 1985 trên thực tế đã phạm những sai lầm, nóng vội dẫn đến những hiệu quả xấu về nhiều mặt.
Thực tiễn đã cho thấy, thực hiện các chế độ báo cáo thống kê và điều tra thống kê của ngành Thống kê Nhà nước, trong đó có một số chế độ báo cáo mới ban hành như Quyết định số 165/TCTK, ngày 25/8/1983 của Tổng cục Thống kê ban hành biểu mẫu báo cáo quyết toán sử dụng vật tư của đơn vị cơ sở và của đơn vị quản lý cấp trên nhằm phục vụ việc thực hiện chế độ quyết toán vật tư, ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã kịp thời triển khai các chế độ báo cáo mới này của Tổng cục Thống kê, tổ chức thu thập tổng hợp làm báo cáo phân tích phản ánh các chỉ tiêu số lượng và chất lượng trong lĩnh vực lưu thông phân phối như: Tổng mức bán buôn, bán lẻ của thương nghiệp, xã hội và tỷ trọng của thương nghiệp có tổ chức và thị trường tự do; tổng trị giá và mặt hàng chủ yếu do ngành thương nghiệp thu mua; hàng hoá điều đi và điều đến; kết quả hoạt động thu mua, xuất nhập khẩu, đặc biệt là công tác thu mua, làm nghĩa vụ lương thực, thu mua thịt lợn hơi, thu mua các loại nông sản phẩm. Báo cáo tồn kho các loại vật tư hàng hoá ở thời điểm 1-7 hàng năm và báo cáo đột xuất khi cần thiết. Về công tác Thống kê tài chính - Ngân hàng, hàng năm ngành Thống kê đã phối hợp chặt chẽ với ngành Tài chính - Ngân hàng để lập báo cáo tổng hợp về thu chi ngân sách, tiền mặt kết quả cho vay, kết quả gửi tiền tiết kiệm, kết quả vận động nhân dân mua công trái đợt phát hành năm 1984.
Đặc biệt là ngành Thống kê đã chỉ đạo trong nội bộ ngành Thống kê nắm bắt và kịp thời báo cáo cho lãnh đạo tỉnh tình hình biến động về giá cả, về thực hiện Nghị quyết TW 8 và Nghị quyết số 28 của Bộ chính trị về “giá- lương- tiền”, tính toán các chỉ tiêu có liên quan để phục vụ cho việc nghiên cứu bù giá vào lương. Một công việc khác khá nặng nề mà ngành Thống kê Bình Trị Thiên trong thời kỳ này là hàng năm vào thời điểm 1-10 ngành Thống kê phải phối hợp với các ngành thương nghiệp triển khai phỗ biến, tổ chức tiếp nhận, xử lý, tổng hợp số liệu và xét duyệt chế độ tem phiếu các loại cho các đội tượng chính sách được hưởng. Công việc tuy vất vả, có nhiều khó khăn, phức tạp nhưng cán bộ trong ngành Thống kê với ý thức trách nhiệm cao nên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, không để xảy ra sai sót. Thông qua các chỉ tiêu nói trên và bằng những việc làm cụ thể tỷ mỷ ngành Thống kê đã phục vụ một cách có hiệu quả cho lãnh đạo tỉnh chỉ đạo thiết thực trên mặt trận phân phối lưu thông hết sức nóng bỏng, nhất là trong việc nắm hàng, nắm tiền, mở rộng mạng lưới thương nghiệp XHCN cải tiến phương thức kinh doanh cũng cố phát triển các HTX mua bán, HTX tín dụng phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống nhân dân trong tỉnh.
Về hoạt động công tác thống kê trong lĩnh vực dân số, văn xã, ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã bám sát các chương trình kế hoạch công tác của ngành, đặc điểm tình hình và yêu cầu của lãnh đạo tỉnh, trong công tác chỉ đạo, điều hành để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nhiều chỉ tiêu thống kê dân số, lao động, tiền lương, văn xã được cập nhật và cung cấp, công bố có hệ thống như dân số, lao động, giải quyết việc làm, đời sống, các hoạt động về văn hoá, giáo dục, y tế...
Trong các báo cáo thống kê hàng năm và niên giám thống kê của ngành. Một trong những quyết định có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào thi đua của các địa phương trong tỉnh Bình Trị Thiên lúc đó là Quyết định số 333 của UBND tỉnh (năm 1984) về công tác kế hoạch hoá gia đình, với mục tiêu phấn đấu là hạ tỷ lệ phát triển dân số hàng năm xuống còn 1,7%. Ngành Thống kê đã phối hợp chặt chẽ với ngành Y tế, Công an các cấp tổ chức tốt công tác điều tra biến động dân số hàng năm, tính toán các chỉ tiêu thống kê như tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số làm cơ sở cho việc kiểm tra, đánh giá phong trào thi đua của các địa phương đơn vị trong tỉnh. Cũng có những trường hợp do nặng tư tưởng thành tích, một số nơi tìm cách bóp méo số liệu sai so với thực tế đã được cán bộ ngành Thống kê kiểm tra phát hiện, đấu tranh để bảo vệ tính trung thực, khách quan của con số thống kê giúp cho lãnh đạo chỉ đạo sát đúng tình hình.
Cùng với việc thực hiện công tác thống kê theo các chuyên ngành nói trên, công tác thống kê tổng hợp đã góp phần quan trọng vào những thành tích chung của toàn ngành. Nét nổi bật là đã duy trì một cách thường xuyên việc thực hiện chế độ báo cáo nhanh hàng tháng, quý, 6 tháng và cả năm về tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh phục vụ kịp thời các thông tin cho các kỳ họp Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh. Ở cấp huyện một số phòng Thống kê cũng làm được như ở cấp tỉnh, ở phía Bắc như phòng Thống kê huyện Lệ Ninh, huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch, huyện Bến Hải, huyện Triệu Hải đã tổ chức sưu tầm, chỉnh lý hệ thống hoá số liệu thống kê thu thập được tiến hành biên soạn và xuất bản các ấn phẩm số liệu thống kê hàng năm 5 năm theo niên độ kế hoạch và theo yêu cầu đột xuất của lãnh đạo tỉnh. Đặc biệt là Cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã biên soạn cuốn niên giám Thống kê 7 năm (1981-1987) với nhiều thông tin khá toàn diện, phong phú.
- Công tác xét duyệt kế hoạch hàng năm cho các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh: Nhà nước giao cho ngành Thống kê chủ trì phối hợp với các ngành có liên quan như Kế hoạch, Tài chính, Ngân hàng, Liên đoàn lao động tỉnh, cơ quan chủ quản... Tham mưu giúp UBND tỉnh trong việc kiểm tra xét duyệt và đề nghị công nhận kết quả hoàn thành kế hoạch Nhà nước hàng năm và trích thưởng theo mức độ hoàn thành, đây là việc làm hết sức phức tạp có liên quan trực tiếp đến quyền lợi cán bộ, công nhân viên chức của đơn vị kinh tế cơ sở, với trách nhiệm được giao ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã phát huy đầy đủ trách nhiệm không ngừng nâng cao chất lượng xét duyệt kế hoạch, đảm bảo tính trung thực khách quan, đã được UBND tỉnh Bình Trị Thiên và các đơn vị kinh tế cơ sở đánh giá cao ngành Thống kê. Công tác xét duyệt hoàn thành kế hoạch được thực hiện cho đến hết năm 1988 thì chấm dứt do sự thay đổi về cơ chế quản lý tự chủ của đơn vị kinh tế cở sở theo tinh thần Đại hội VI của Đảng (năm 1986) thực hiện tiến trình công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.
Bên cạnh công tác xét duyệt hoàn thành kế hoạch Nhà nước hàng năm, thời kỳ này Nhà nước còn tổ chức giao ước thi đua giữa các tỉnh trong từng khu vực, giao ước thi đua giữa các ngành, các huyện, thị trong tỉnh. Ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên được giao nhiệm vụ thu thập tổng hợp tính toán kết quả thực hiện các chỉ tiêu đã ký giao ước thi đua phục vụ cho Hội đồng xét duyệt thi đua của TW và của tỉnh. Các cán bộ đã đựơc lãnh đạo Cục Thống kê tỉnh giao theo dõi làm công tác chuyên trách này đã nhận thức được đầy đủ trách nhiệm và vinh dự được phục vụ, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua ở địa phương do đó kết quả công tác này đạt được thành tích cao, uy tín và vị thế của ngành Thống kê ngày càng được nâng cao.
- Công tác thống kê cân đối là nhiệm vụ của phòng Thống kê cân đối nghiên cứu thực hiện đầy đủ các chế độ báo cáo của Tổng cục Thống kê ban hành áp dụng cho các tỉnh trong cả nước về lĩnh vực thống kê cân đối như: Thông tư số 324/TCTK-CĐ, ngày14/4/1977, Thông tư số 681/TCTK-CĐ ngày 15/8/1980 của Tổng cục Thống kê về việc tổ chức thu thập, khai thác số liệu sẵn có của các phòng thống kê chuyên ngành trong cơ quan văn phòng Cục để lập các bảng cân đối về tiền tệ và hiện vật và tính toán các chỉ tiêu tổng hợp của nền kinh tế như tính tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân của tỉnh theo phương pháp MPS. Thông qua đó ngành Thống kê đã tham mưu cho lãnh đạo tỉnh có thêm những thông tin thống kê để nghiên cứu nhìn nhận một cách tổng quan nền kinh tế địa phương, các mối quan hệ tỷ lệ cơ cấu giữa các ngành, giữa các thành phần kinh tế xu hướng và tốc độ phát triển của nền kinh tế qua từng năm và qua từng thời kỳ kế hoạch 5 năm, 10 năm.
Tổ chức chỉ đạo các cuộc điều tra có quy mô lớn
Bên cạnh việc tổ chức tốt và đầy đủ các công tác có tính chất định kỳ, thường xuyên như trên, trong thời kỳ hoạt động của ngành Thống kê Bình Trị Thiên đã tổ chức thực hiện thành công các cuộc điều tra có quy mô lớn như:
- Điều tra và thống kê tình hình cơ bản về đất đai trong cả nước (theo Quyết định số 169/CP, ngày 24/6/1977 của Hội đồng Chính phủ; Quyết định số 339/VP-ĐTRĐ, ngày 27/8/1977 của Tổng cục Thống kê và Thông tư số 469/TTg, ngày 23/12/1977 của Thủ tướng Chính phủ) cuộc điều tra kéo dài hơn 2 năm với sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành có liên quan, trong đó có 2 ngành: Thống kê và quản lý ruộng đất chịu trách nhiệm chính. Ban chỉ đạo tổng điều tra của tỉnh do phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên làm Trưởng Ban, Cục Thống kê tỉnh cử đồng chí Trần Nhân Khoái - Phó Cục trưởng làm phó Trưởng Ban Thường trực và cử một số cán bộ có năng lực ở phòng thống kê nông nghiệp tham gia giúp việc. Ở huyện, thị, thành phố, ngoài lực lượng cán bộ trong biên chế của phòng thống kê, phòng quản lý ruộng đất và một số ngành khác có liên quan, còn trưng tập thêm một số cán bộ làm hợp đồng ngoài biên chế cùng tham gia giúp việc. Sau 2 năm triển khai thực hiện, cuộc tổng điều tra đã thu thập được nhiều thông tin cơ bản về tình hình đất đai chung toàn tỉnh đúng phương án tổng điều tra đã đề ra. Kết quả đã xử lý công bố sử dụng đáp ứng yêu cầu quản lý sử dụng đất đai có hiệu quả. Những thông tin về kết quả tổng điều tra đất đai nói trên thuộc về địa giới Quảng Trị tổng diện tích tự nhiên 455.200 ha, trong đó đất nông nghiệp: 51.865 ha, chiếm 11%, đất lâm nghiệp : 91.249 ha, chiếm 20%, đất chuyên dùng 21.246 ha, chiếm 0,5%, đất khác 295.840 ha, chiếm 64 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh và có nhiều cơ cấu các loại đất, lúa, màu, rau đậu... Đó là những thông tin thống kê rất bổ ích cho việc nghiên cứu phát triển nông nghiệp và trong phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Quảng Trị qua các thời kỳ kế hoạch.
- Năm 1979 cả nước tiến hành cuộc tổng điều tra dân số vào thời điểm 01/10/1979 (theo Quyết định số 183/CP ngày 20/7/1978 của Thủ tướng Chính phủ). Đây là lần đầu tiên tiến hành tổng điều tra dân số trong cả nước.
- Ngày 01/4/1989 cả nước lại tiến hành tổng điều tra dân số lần thứ hai (theo Quyết định 122/HĐBT, ngày 17/8/1987 của Hội đồng Bộ trưởng). Tổng điều tra dân số là loại điều tra cơ bản, toàn diện được tiến hành theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ, có quy mô lớn liên quan đến mọi người dân, hộ gia đình thường trú trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cuộc tổng điều tra có quy mô lớn, khó khăn, phức tạp đầu tư chi phí lớn, tốn kém sức người, sức của nên theo thông lệ cứ 10 năm mới tổ chức tổng điều tra một lần.
Nhận rõ vị trí, tầm quan trọng của cuộc tổng điều tra dân số, cả 2 lần tổ chức tổng điều tra, lãnh đạo tỉnh Bình Trị Thiên đều xác định đây là nhiệm vụ trung tâm đột xuất và rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Do đó tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo Tổng điều tra và có nhiều biện pháp quan tâm đúng mức, tăng cường công tác chỉ đạo. BCĐ Tổng điều tra do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên làm Trưởng Ban, đồng chí Cục trưởng Cục Thống kê làm Phó Trưởng Ban Thường trực và trưng tập lãnh đạo, cán bộ chuyên viên các ngành có liên quan như: Kế hoạch, Tài chính, Công an làm uỷ viên Ban chỉ đạo. Ở cấp huyện, thị, thành phố Huế và cấp xã, phường cũng thành lập Ban chỉ đạo Tổng điều tra với thành phần cơ cấu tương tự như cấp tỉnh. Ban chỉ đạo các cấp luôn luôn phối hợp chặt chẽ với các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong quá trình tổ chức chỉ đạo, triển khai thực hiện đảm bảo theo đúng quy trình, phương án của Ban chỉ đạo TW quy định, chấp hành tốt chế độ kiểm tra, báo cáo tiến độ ....Trong quá trình thực hiện cuộc tổng điều tra.
Nhìn chung cả 2 cuộc tổng điều tra dân số 1979 và 1989 ở tỉnh Bình Trị Thiên đều thu được kết quả tốt, đảm bảo được cả về thời gian và chất lượng số liệu thu thập được. Một số thông tin thu thập được từ cuộc tổng điều tra dân số 01/10/1979 và 01/4/1989 do ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đảm nhận xử lý, tổng hợp, công bố phục vụ lãnh đạo tỉnh và các Bộ ngành TW, Chính phủ đã cho ta thấy: Kết quả Tổng điều tra dân số 01/10/1979 ở tỉnh Bình Trị Thiên tổng số dân toàn tỉnh Bình Trị Thiên có 1.760.820 người. Riêng các địa bàn ở Quảng Trị 428.056 người chiếm 24% dân số Bình Trị Thiên, trong đó cơ cấu nam 202.201 người chiếm 47,57%, nữ 225.855 người chiếm 52,43% dân số Quảng Trị. Thành thị có 47.771 người chiếm 11,16%, nông thôn có 380.285 người chiếm 88,84% dân số Quảng Trị. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số năm 1979 Đông Hà 2,36%; Bến Hải 2,7%; Triệu Hải 2,38%; Hướng Hoá 3,84%.
Tổng dân số 01/4/1989 tỉnh Bình Trị Thiên có 1.995.126 người, riêng khu vực Quảng Trị có 457.600 người chiếm 23% tổng dân số tỉnh Bình Trị Thiên; khu vực thành thị có 61.500 người chiếm 13%; khu vực nông thôn có 396.100 người chiếm 87% dân số khu vực Quảng Trị. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số Quảng Trị năm 1989 là 2,27%. Các số liệu nói trên có ý nghĩa hết sức to lớn đối với các nhà lãnh đạo và nhà quản lý, nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách và xây dựng kế hoạch, quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, kết thúc 2 cuộc Tổng điều tra dân số năm 01/10/1979, 01/4/1989 ở tỉnh Bình Trị Thiên, Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số TW đã tặng nhiều Bằng khen cho tập thể và cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc trong 2 cuộc Tổng điều tra dân số nói trên. Riêng khu vực Quảng Trị chiếm 40% trong tổng số Bằng khen của BCĐ-TĐT DSTW tặng (tập thể 7 đơn vị, cá nhân 7 người).
Bên cạnh những công việc đã kể trên, trong thời kỳ này ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên cũng được Nhà nước giao trách nhiệm chủ trì tổ chức một số cuộc điều tra và một số cuộc kiểm kê có quy mô lớn như: Điều tra trồng cây gây rừng phục vụ công tác tổng kết 20 năm thực hiện “Tết trồng cây” của Hồ Chủ Tịch (1960-1979) theo Quyết định số 84/TTg ngày 12/3/1980 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 275/LBLN-TCTK ngày 21/4/1980 của Liên Bộ Lâm nghiệp - Tổng cục Thống kê; Tổng kiểm kê, đánh giá lại tài sản trong các đơn vị cơ sở, các ngành kinh tế thuộc khu vực Nhà nước ( theo Quyết định số 138/CP ngày 7/5/1980 của Hội đồng Chính phủ)....
Song song với công tác chuyên môn nghiệp vụ, ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên còn phản ảnh những kết quả bước đầu thực hiện công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh Bình Trị Thiên từ năm 1986 - 1989, ngành Thống kê đã quan tâm triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương về đổi mới nội dung công tác chuyên môn của Tổng cục Thống kê, vận dụng linh hoạt vào tình hình thực tế của địa phương nhằm không ngừng nâng cao chất lượng công tác thống kê đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của lãnh đạo các cấp, các ngành trong giai đoạn mới mà cụ thể là từ sau Đại hội VI (tháng 12/1986) Đảng ta đã khởi xướng lãnh đạo, cán bộ công nhân viên chức ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã không những triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành phục vụ cho công cuộc đổi mới mà còn tích cực tham gia ý kiến đóng góp cho Tổng cục Thống kê nghiên cứu cải tiến tổ chức, thay đổi bổ sung chế độ báo cáo và điều tra thống kê phù hợp với cơ chế quản lý mới. Thông qua các cuộc họp, hội nghị tổng kết, sơ kết hàng năm của chuyên môn, Đảng, đoàn thể... Để đề xuất kiến nghị cụ thể như cuộc họp Chi bộ Đảng Cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên chiều 22/12/1988 ngoài nội dung đánh giá công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo chính trị tư tưởng trong Đảng và ngoài quần chúng về việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn trong năm. Cuộc họp chi bộ lần này đã có nhiều ý kiến quan tâm đóng góp với lãnh đạo cấp trên về mô hình tổ chức bộ máy thống kê các cấp, chuyển sang địa phương quản lý hiện đang xuống cấp thiếu đồng bộ giữa giao chỉ tiêu kế hoạch thông tin thống kê với giao biên chế quỹ lương, kinh phí nghiệp vụ, dẫn đến hệ thống cung cấp thông tin thống kê đang trên đà xuống cấp nhất là cấp huyện, thị, thành phố. Vì vậy đề nghị cấp trên cần phải thay đổi phong cách lãnh đạo, cải cách về công tác tổ chức của ngành Thống kê để đảm bảo số liệu thống kê có độ tin cậy cao, đáp ứng kịp thời, đầy đủ phục vụ Đảng và nhà nước các cấp.

Về công tác cơ giới hoá tính toán
Ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên đã từng bước quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển công tác cơ giới hoá tính toán đã trở thành một trong những tỉnh mạnh so với cả nước. Được sự quan tâm giúp đỡ của Tổng cục Thống kê công tác cơ giớ hoá tính toán của ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên được trang bị dần từng bước từ thấp đến cao, từ thô sơ đến hiện đại thích ứng với giai đoạn đổi mới, phát triển. Năm 1982 đến năm 1984 Tổng cục Thống kê phân bổ cho Cục Thống kê Bình Trị Thiên một hệ thống máy tính điện tử của Cộng hoà dân chủ Đức viện trợ, đây là hệ thống máy tính hiện đại và đã tiếp nhận một số kỹ sư máy tính, điện tử ... Do đó hoạt động của xí nghiệp máy tính đã từng bước vươn lên đáp ứng được yêu cầu trong việc xử lý, tổng hợp một số cuộc điều tra lớn của ngành, đảm bảo được tính kịp thời và nâng cao độ chính xác của số liệu thống kê. Ngoài ra xí nghiệp còn nhận hợp đồng xử lý, tổng hợp số liệu cho một số cơ quan đơn vị khác ở ngoài ngành và bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa các loại máy tính, máy đánh chữ ...
3. Công tác xây dựng cơ sở vật chất và quản lý tài chính, tài sản:
Ngoài việc đầu tư trang thiết bị các loại máy móc tính toán phục vụ cho công tác thống kê kinh tế - xã hội của ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên. Lãnh đạo ngành Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên cũng hết sức chú trọng đến việc xây dựng trụ sở làm việc, nơi ăn chốn ở cho cán bộ công nhân viên văn phòng Cục và phòng Thống kê các huyện, thị xã, thành phố. Năm 1977 Tổng cục Thống kê đã ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở văn phòng Chi cục tại số 2 đường Hà Nội thành phố Huế với quy mô kết cấu nhà 4 tầng kiên cố, có tổng diện tích xây dựng 1540 m2, cuối năm 1978 đưa vào sử dụng và làm thêm 2 dãy nhà cấp bốn để bố trí cho các hộ gia đình cán bộ công nhân viên chức cả 2 vợ chồng đều là cán bộ trong ngành.
Từ năm 1980 đến năm 1984 Tổng cục Thống kê tiếp tục đầu tư xây dựng trụ sở cho các phòng thống kê huyện, thị xã có 9/14 huyện, thị, thành phố được đầu tư xây dựng trụ sở nhà kiên cố và bán kiên cố. Ở khu vực Quảng Trị có 3 phòng Thống kê được Tổng cục Thống kê đầu tư xây dựng trụ sở là: Bến Hải, Triệu Hải và Hướng Hóa. Đến năm 1988 thực hiện Thông tư số 46 của Ban Bí thư TW cơ quan Thống kê các cấp bàn giao về địa phương quản lý, toàn bộ các công trình Tổng cục Thống kê đầu tư xây dựng cho phòng thống kê huyện, thị xã thuộc tỉnh Bình Trị Thiên bàn giao sang UBND huyện, thị xã quản lý và sáp nhập phòng thống kê với phòng kế hoạch.
4. Công tác xây dựng Đảng, và hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị:
Hoạt động công tác Đảng cơ quan văn phòng Cục phát triển mạnh. Ngay từ những năm đầu hợp nhất tỉnh cho đến năm 1989 Chi bộ Cục Thống kê Bình Trị Thiên đã kết nạp được 20 đảng viên mới. Chi bộ thường xuyên duy trì sinh hoạt, Chi bộ, Chi uỷ định kỳ hàng tháng, kiểm điểm đánh giá công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo quần chúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyên môn đoàn thể. Hàng năm Chi bộ được cấp trên công nhận Chi bộ 4 tốt, Chi bộ trong sạch vững mạnh.
Các đoàn thể công đoàn, thanh niên, nữ công, tự vệ có phong trào hoạt động mạnh mẻ ở thành phố Huế. Đặc biệt là đại đội tự vệ Cục Thống kê thường xuyên hàng năm từ năm 1979 đến năm 1989 đã được thành đội Huế, Tỉnh đội, Quân khu 4 công nhận đơn vị Quyết thắng và nhiều tập thể trung đội, tiểu đội và cá nhân được công nhận chiến sỹ thi đua, chiến sỹ quyết thắng được tặng nhiều Bằng khen của Tỉnh đội và Quân khu 4.
Nhờ có bộ máy tổ chức hoàn chỉnh, hoạt động đồng bộ tạo nên sức mạnh tổng hợp và được sự quan tâm đúng mức của Chi uỷ, Chi bộ và Ban lãnh đạo Cục Thống kê Bình Trị Thiên nên phong trào hoạt động của các tổ chức đoàn thể có kết quả bề nổi và chiều sâu, nâng cao được vị thế của ngành trong thời kỳ này.
Về các mặt hoạt động khác
Về tổ chức thực hiện chủ trương của TW, của Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên về tăng gia sản xuất tự túc lương thực cải thiện đời sống trong cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Phấn đấu tự túc lương thực cho mỗi cán bộ CNVC từ 1-2 tháng trong năm theo phát động của tỉnh. Song song với tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, tự túc lương thực năm 1979 -1980 nhằm chủ động đối phó với tình hình do bè lũ Pôn Pốt Campuchia phía Tây Nam và tập đoàn phản động Bắc Kinh biên giới phía Bắc nước ta. Bộ Chính trị TW Đảng và Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên có chủ trương ra Nghị quyết về tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện Nghị quyết đó nhiều cơ quan, trong đó có Cục Thống kê Bình Trị Thiên xây dựng cơ sở II tại Bình Điền phía Tây thành phố Huế, trước mắt là để sản xuất lương thực tự túc nếu có chiến tranh xảy ra thì làm nơi sơ tán của cơ quan Cục. Lúc đầu cử đồng chí Nguyễn Văn Minh phó trưởng phòng tổ chức hành chính được biệt phái làm Trưởng Trại sản xuất cùng với một số cán bộ khác như: Nguyễn Trung Anh, Nguyễn Hữu Hảo, đồng chí Hạnh là lực lượng thường trực ở trại sản xuất Bình Điền. Theo kế hoạch từng thời vụ, từng đợt lãnh đạo Cục và công đoàn cơ quan phối hợp huy động bố trí cán bộ, đoàn viên công đoàn văn phòng Cục đi lao động ở trại sản xuất tự túc Bình Điền từ 3-5 ngày trong một đợt, đã góp phần vào việc giải quyết vấn đề lương thực cho từng gia đình cũng như cả cơ quan trong thời kỳ khó khăn.
Công việc tăng gia sản xuất tự túc lúc bấy giờ là chủ trương bắt buộc nên lãnh đạo Chi cục và công đoàn cơ quan không những tổ chức sản xuất ở trại Bình Điền mà còn mở rộng xin đất, xin ruộng sản xuất ở khá nhiều địa điểm khác nhau như ở Nông trường Cồn Tiên (Bến Hải), Phong Sơn (Phong Điền), Phú Lương (Hương Thuỷ), Phong Thuỷ (Lệ Thuỷ) .... Từ cán bộ lãnh đạo Chi cục đến cán bộ công nhân viên chức vừa làm công việc chuyên môn vừa tham gia lao động sản xuất tự túc, mặc dù rất vất vả nhưng ai nấy đều vui vẻ, phấn khởi khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ vừa để cải thiện đời sống vừa làm nghĩa vụ nhà nước về tự túc lương thực 1-2 tháng người/ năm.
Bên cạnh xây dựng cơ sở II tự túc lương thực và dự phòng khi có chiến tranh, thực hiện chủ trương của lãnh đạo Tổng cục Thống kê. Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên tuy có nhiều khó khăn về chỗ làm việc, nơi ăn chốn ở cho cán bộ công nhân viên chức, nhưng Chi cục đã thu xếp dành một ngôi nhà hộp 2 tầng cho Tổng cục Thống kê làm kho lưu trữ hàng chục tấn tài liệu để dự phòng chiến tranh biên giới phía Tây Bắc..Trong thời gian này có nhiều cán bộ của ngành tham gia nghĩa vụ quân sự bảo vệ biên giới phía Bắc, Tây Nam, đó là các đồng chí : Hoàng Văn Nghé, Đặng Hồng Ngọc, Lê Ngọc Thuật, Phan Thanh Quyên, Nguyễn Đình Chiến, Lý Công Tâm...
II. THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG TÁCH TỈNH BÌNH TRỊ THIÊN:
Ngày 14/4/1989, Bộ chính trị ra Quyết định số 86/QĐTW về chia tỉnh Bình Trị Thiên và ngày 8/5/1989 Bộ chính trị ra Quyết định số 87/QĐTW về chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Đồng chí: Võ Chí Công - Uỷ viên Bộ chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước trực tiếp chỉ đạo tách tỉnh Bình Trị Thiên.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của TW, ngày 18/5/1989 Hội nghị Tỉnh uỷ, tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ 12 (khoá IV) đã ra Nghị quyết số 18/NQ-TU về lãnh đạo thực hiện Quyết định chia tỉnh Bình Trị Thiên.
Ngày 30/5/1989 Bộ chính trị ra Quyết định số 698/QĐ-TW chỉ định đồng chí Nguyễn Đức Hoan - Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, tỉnh Bình Trị Thiên giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị, đồng chí Nguyễn Bường - Tỉnh uỷ viên, uỷ viên UBND tỉnh, giám đốc Sở Tài chính tỉnh Bình Trị Thiên giữ chức Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị.
Ngày 05/6/1989 Ban bí thư TW Đảng ra Quyết định số 705/NQNS - TW chỉ định Ban chấp hành Lâm thời Đảng bộ của 3 tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình,Thừa Thiên Huế, Ban chấp hành Lâm thời tỉnh Đảng bộ Quảng Trị gồm 20 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị gồm đồng chí: Nguyễn Đức Hoan, Lê Văn Hoan, Ngô Tứ Linh, Nguyễn Bường, Phan Chung.
Ngày 30/6/1989 Quốc hội khoá VIII (kỳ họp thứ 5 đã thông qua Nghị quyết về việc phân vạch địa giới hành chính của các tỉnh: Nghĩa Bình, Phú Khánh và tỉnh Bình Trị Thiên. Tỉnh Bình Trị Thiên được tách ra 3 tỉnh: Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế. Tổ chức bộ máy mỗi tỉnh có khoảng 42 đầu mối trực thuộc tỉnh, trong đó có 4 Ban của Tỉnh uỷ, 5 đoàn thể chính trị - xã hội, 26 Sở, Ban, Ngành chuyên môn, 5 Công ty sản xuất kinh doanh trực thuộc UBND tỉnh. Tỉnh Quảng Trị có 4 đơn vị Hành chính cấp huyện là: Thị xã Đông Hà, huyện Bến Hải, Triệu Hải và Hướng Hoá.
Ngày 07/7/1989 Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên họp phiên cuối cùng thông qua các đề án chia tỉnh và dự kiến phân bổ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên về các tỉnh mới.
Các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh được phân bổ về 3 tỉnh như sau: Quảng Bình có 37 đại biểu, Quảng Trị có 27 đại biểu, Thừa Thiên Huế có 51 đại biểu. Cũng tại kỳ họp này, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên kêu gọi nhân dân Bình Trị Thiên phát huy truyền thống đoàn kêt, gắn bó keo sơn trong suốt trường kỳ lịch sử, nhất là 13 năm chung sức, chung lòng trong tỉnh hợp nhất để phấn đấu xây dựng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế không ngừng phát triển.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội, của Bộ chính trị, Ban Bí thư TW Đảng và các văn bản pháp quy của Hội đồng Chính phủ như trên đã nói. Ngày 29/5/1989 Thường vụ Tỉnh uỷ tỉnh Bình Trị Thiên đã ra Quyết định số 35/QĐ-TW về việc cử triệu tập viên của Chi cục Thống kê tỉnh Quảng Trị do đồng chí Thái Bá Nhiệm - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên ký. Nội dung Quyết định của Thường vụ tỉnh Bình Trị Thiên đã chỉ rõ:
- Để thực hiện Quyết định của Bộ chính trị
- Thi hành Nghị quyết của Hội Nghị Tỉnh uỷ lần thứ 12.
- Xét đề nghị của Ban tổ chức Tỉnh uỷ sau khi được các đồng chí phụ trách tỉnh mới thống nhất:
Điều 1: Cử đồng chí Hoàng Đức Chúng: chức vụ Trưởng phòng Tổ chức, đơn vị công tác: Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên làm Triệu tập Viên của cơ quan Chi cục Thống kê thuộc tỉnh Quảng Trị.
Điều 2: Trách nhiệm của Triệu tập Viên là: Dựa vào các đề án phân chia tỉnh, cùng với tập thể lãnh đạo ở cơ quan, tham gia tổ chức xây dựng, tổ chức thực hiện đề án của cơ quan mình. Nắm tình hình mọi mặt (cán bộ, nhân viên, tài liệu, tài sản, vật tư, vốn liếng kế hoạch di chuyển) để báo cáo với lãnh đạo tỉnh mới và thi hành nhiệm vụ tổ chức tiếp nhận theo sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh mới.
Điều 3: Cơ quan Chi cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên, đ/c Hoàng Đức Chúng, các cơ quan, Ban, Ngành có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
Ngày 01/6/1989 Hội nghị bất thường Chi bộ Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên, đồng chí Bí thư chi bộ Nguyễn Văn Nghị phổ biến chủ trương tách tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, xác định công tác tư tưởng trong đảng viên, Chi bộ nói rõ chủ trương, mục đích, ý nghĩa việc chia tỉnh của Bộ Chính trị, quan điểm lập trường của cán bộ đảng viên, xác định khi chia tách những tỉnh trở về địa giới mới là hết sức khó khăn trước mắt về mọi mặt. Từ đó để bộ phận ở lại, bộ phận ra đi cùng phối hợp thông suốt trong việc chia tách cán bộ, tài chính, tài sản cho tốt, đảm bảo tình cảm, đoàn kết trước sau như một.
Tiếp đến ngày 02/6/1989 họp Chi uỷ - Chi bộ, Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên: Bàn kế hoạch phân chia cán bộ, phân chia tài sản, tài chính và số liệu, tài liệu cho 3 Chi cục Thống kê mới và chỉ đạo 3 triệu tập viên của 3 Chi cục Thống kê mới thực hiện việc phân chia nói trên.
Ngày 3/6/1989 Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên đã họp triệu tập viên 3 tỉnh và có lập biên bản báo cáo số 286-VP/TK về văn bản phân bổ cán bộ Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên ra 3 tỉnh mới. Cuộc họp triệu tập viên 3 tỉnh gồm có:
1. Đ/c Đinh Ngọc Tú-Triệu tập Viên Chi cục Thống kê Quảng Bình.
2. Đ/c Hoàng Đức Chúng- Triệu tập Viên Chi cục Thống kê Quảng Trị.
3. Đ/c Phan Duy Thuyên- Triệu tập Viên Chi cục Thống kê TT-Huế.
Dự cuộc họp còn có các đồng chí sau đây tham gia:
1. Đ/c Nguyễn Văn Nghị, Phó Bí thư Đảng uỷ, UBKH-TK, Bí thư Chi bộ Chi cục Thống kê Bình Trị Thiện.
2. Đồng chí Nguyễn Văn Trưng, Chủ tịch Công đoàn cơ quan Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên.
3. Đ/c Hoàng Ngọc Định, nguyên Cục trưởng Cục Thống kê Bình Trị Thiện, lúc này là chuyên viên công tác Tổng điều tra dân số tỉnh Bình Trị Thiên.
Cuộc họp đã cân nhắc xem xét từng trường hợp của từng cán bộ nhân viên, chuyên viên, 3 đồng chí triệu tập viên đã thống nhất phân bổ cán bộ công nhân viên chức cho 3 tỉnh mới như sau: Tổng số CBCNVC văn phòng Chi cục là 57 đồng chí, phân về Chi Cục Thống kê Quảng Bình 21 đ/c; Phân về Chi Cục Thống kê Thừa Thiên Huế 25 đ/c; phân về Chi Cục Thống kê Quảng Trị 9 đ/c:
1. Hoàng Đức Chúng, trưởng phòng TCHC, Chi uỷ - Chi bộ, Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên, Triệu tập Viên của Chi cục Thống kê Quảng Trị.
2. Nguyễn Hữu Thân, phó Trưởng phòng N-L-TS Chi cục TK BTT.
3. Vương Thị Ngụ, chuyên viên phòng XDCB-GT Chi cục TK BTT.
4. Phan Quang Trung, cán sự kế toán xí nghiệp biểu mẫu TK BTT.
5. Nguyễn Thanh Nghị, cán sự, phòng CN-XDCB-GT Chi cục TK BTT.
6. Dương Tiến Thủ, cán sự, phòng N-L-TS Chi cục Thống kê BTT.
7. Trương Quang Khích, cán sự, xí nghiệp biểu mẫu thống kê BTT.
8. Nguyễn Thị Hoài Thương, nhân viên đánh máy VP Chi cục TK BTT
9. Phan Thị Hải Thanh, công nhân xí nghiệp máy tính Chi cục TK BTT
Sau khi thực hiện phân chia cán bộ, tài sản, tài chính đã thông qua chi bộ, Đảng bộ KHTK Bình Trị Thiên. Bắt đầu ngày 20/6/1989 đồng chí Hoàng Đức Chúng cùng lãnh đạo UBKH tỉnh Quảng Trị, đồng chí Lê Phước Từ, Lê Hữu Phúc tiếp tục ra Đông Hà liên hệ mượn địa điểm tập kết cán bộ, tập kết tài sản để kịp 01/7/1989 đi vào hoạt động. Dưới sự chỉ đạo điều hành của đ/c Lê Phước Từ, Tỉnh uỷ viên, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch-Thống kê đã làm việc với Ban giám đốc Công ty vận tải biển Quảng Trị và Xí nghiệp nước Đông Hà đã thống nhất: Công ty vận tải biển Quảng Trị nhượng 2 dãy nhà cấp 4 để làm địa điểm tập kết các hộ gia đình cán bộ được phân từ Chi cục Thống kê Bình Trị Thiên ra.
Về chỗ làm việc, Chi cục Thống kê Quảng Trị mượn tạm lán trại của Xí nghiệp nước Đông Hà để làm trụ sở.
Từ đây, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị bước sang giai đoạn phát triển mới. Ngành Thống kê Bình Trị Thiên cùng chung bối cảnh lịch sử chia tách tỉnh Bình Trị Thiên ngày 01/7/1989.
 


Hoạt động trong ngành
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê Niên giám Thống kê Gửi báo cáo Thống kê
Mạng riêng của ngành dieu tra doanh nghiep 2024 Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013 Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị