Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 55
Hôm nay: 136
Lượt truy cập: 1,066,429
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2017
Cập nhật bản tin: 12/29/2017
            

         Năm 2017 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi mới, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Kinh tế thế giới chuyển biến tích cực với đà tăng trưởng khả quan từ kinh tế Mỹ và các nước phát triển. Hoạt động thương mại và đầu tư toàn cầu phục hồi trở lại là những yếu tố tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Tuy nhiên, việc gia tăng chủ nghĩa bảo hộ cùng với những điều chỉnh chính sách của Mỹ và một số nước lớn đã ảnh hưởng đến cơ hội xuất khẩu của Việt Nam. Ở trong nước, bên cạnh những kết quả nổi bật về cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, những tín hiệu khả quan về xuất khẩu, thu hút khách quốc tế và đầu tư nước ngoài; những vấn đề tồn tại của nền kinh tế hiện nay như: chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp vẫn đang là thách thức tới mục tiêu tăng trưởng của cả nước; giá nông sản, thực phẩm, nhất là thịt lợn giảm mạnh tác động tiêu cực đến ngành chăn nuôi. Tại Quảng Trị, trong năm qua giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi xuống thấp, làm cho một bộ phận dân cư gặp khó khăn; tình hình thiên tai, dịch bệnh diển biến phức tạp; môi trường biển tuy đã phục hồi nhưng ảnh hưởng vẫn còn nặng nề; thu ngân sách, thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; môi trương kinh doanh tuy có cải thiện, nhưng số doanh nghiệp thành lập mới chưa nhiều; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên gặp nhiều rủi ro trong cuộc cạnh tranh hiện nay.

Thực hiện Kết luận số 38-KL/TU ngày 08/12/2016 của Tỉnh ủy về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2017; Kết luận số 49-KL/TU ngày 06/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong năm 2017; các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tại Nghị quyết số 21/2016/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 và Nghị quyết số 24/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 về Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, chi ngân sách địa phương năm 2017 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Quảng Trị khóa VII, kỳ họp thứ 3; dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy; sự giám sát chặt chẽ của HĐND tỉnh; sự nỗ lực và quyết tâm của các cấp, các ngành, các địa phương, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong toàn tỉnh; tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị  năm 2017 đạt được những kết quả tích cực trên các ngành, lĩnh vực như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

 1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2017 (GSS2010) ước tính đạt 17781 tỷ đồng, tăng 7,02% so với năm 2016; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ước đạt 3618 tỷ đồng, tăng 3,33 %, đóng góp 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 4222 tỷ đồng, tăng 10,6%, đóng góp 2,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ ước đạt 9015 tỷ đồng, tăng 7,01%, đóng góp 3,56 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 926 tỷ đồng, tăng 6,31%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành thủy sản đạt mức tăng cao nhất với 23,08%; năm 2016 ngành này do ảnh hưởng của sự cố môi trường biển nên sản lượng thủy sản đạt thấp; năm 2017 môi trường biển đã phục hồi, sản lượng thủy sản tăng 29,57% so với năm 2016. Ngành lâm nghiệp tăng 7,44% do sản lượng gỗ khai thác tăng 6,87% và diện tích rừng trồng mới tập trung tăng 25,52%. Ngành nông nghiệp giảm 0,05% do năm 2017 sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm khác và cây lâu năm đều tăng; nhưng do sản lượng lúa giảm 7,57% (-19906 tấn), sản lượng thịt hơi xuất chuồng giảm 3,76% làm cho ngành này giảm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 14,13%. Điểm sáng của khu vực này là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 15,5%, năm 2017 một số doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh nên sản xuất tăng khá; một số dự án hoàn thành đi vào hoạt động làm cho sản lượng tăng. Ngành xây dựng, trong điều kiện khó khăn chung của đất nước, phải cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước và nợ công nên vốn đầu tư nhà nước hạn chế; ngân sách địa phương eo hẹp; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ, năng lực có hạn; nguồn lực trong dân hạn chế; tình hình thu hút đầu tư nước ngoài và công tác xã hội hóa, thu hút đầu tư của tỉnh tuy có những mặt tích cực nhưng còn không ít khó khăn; công tác giải ngân chậm đã ảnh hưởng đến kết quả sản xuất nên ngành này chỉ tăng 6,8%.

Khu vực dịch vụ, một số ngành dịch vụ kinh doanh có tỷ trọng giá trị tăng thêm cao nhưng tốc độ tăng thấp như: bán buôn, bán lẻ chỉ tăng 5,56%, thông tin truyền thông tăng 7,03%, hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,78%, hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 3,83%...là do ảnh hưởng của sự cố ô nhiễm môi trường biển vẫn còn nặng nề; giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi xuống thấp đã làm cho một bộ phận dân cư gặp khó khăn, sức mua giảm sút. Các ngành dịch vụ không kinh doanh như: quản lý nhà nước, giáo dục đào tạo, y tế…có mức tăng thấp do biên chế ổn định, tiết kiệm chi thường xuyên...nên khu vực này chỉ tăng 7,01%.

Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2017 ước tính đạt 24623 tỷ đồng. GRDP bình quân đầu người năm 2017 ước tính đạt 39,2 triệu đồng, tăng 7,8% so với năm 2016.

Về cơ cấu kinh tế năm 2017: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 20,74%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,52%; khu vực dịch vụ chiếm 49,53%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,21% (Cơ cấu tương ứng của năm 2016 là : 22,66%; 23,59%; 48,51%; 5,24%).                            

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Tài chính

Bước vào năm 2017, trong điều kiện tình hình thu ngân sách địa phương gặp  nhiều khó khăn, tiến độ thu đạt thấp; thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất - kinh doanh; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đã đề ra; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan… Triển khai quyết liệt công tác thu ngân sách nhà nước, quyết tâm thu đạt và vượt dự toán. Tổ chức điều hành, quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, tiết kiệm, đúng quy định, chống lãng phí. Tỉnh đã tăng cường công tác quản lý chi ngân sách nhà nước, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả; hạn chế tối đa việc đề xuất bổ sung kinh phí ngoài dự toán, không tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách khi chưa có nguồn đảm bảo; Quản lý chi chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, dàn trải, chủ động rà soát, sắp  xếp để cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thật sự cần thiết, cấp bách; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, đúng quy định việc mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công…

Tích cực tìm các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, nuôi dưỡng và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Đẩy mạnh công tác thu, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định; hạn chế tình trạng nợ đọng thuế.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/12/2017 đạt 2150,14 tỷ đồng, bằng 89,74% dự toán năm 2017 và tăng 28,62% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1898,24 tỷ đồng, bằng 89,29% dự toán và tăng 34,79%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 234,6 tỷ đồng, bằng 86,89% dự toán và giảm 5,54%. Trong thu nội địa, các khoản thu lớn như: thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 209 tỷ đồng, bằng 82,28% dự toán và tăng 24,32%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 543,27 tỷ đồng, bằng 64,52% dự toán và tăng 28,57%; lệ phí trước bạ 99,13 tỷ đồng, bằng 79,31% dự toán và tăng 0,49%; thuế bảo vệ môi trường 294,84 tỷ đồng, bằng 127,93% dự toán và tăng 79,84%; thu tiền sử dụng đất 480,66 tỷ đồng, bằng 128,18% dự toán và tăng 46,84%...

Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/12/2017 thực hiện 5532,68 tỷ đồng, bằng 80,29% dự toán năm 2017 và tăng 11,57% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 1480,88 tỷ đồng, bằng 203,87% dự toán và tăng 11,51%; chi thường xuyên 3997,28 tỷ đồng, bằng 91,41% dự toán và tăng 11,59%. Trong chi thường xuyên, các khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1661,38 tỷ đồng, bằng 85,28% dự toán và tăng 11%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 354,01 tỷ đồng, bằng 80,86% dự toán và giảm 6,52%; chi quản lý hành chính 1021,37 tỷ đồng, bằng 105,23% dự toán và tăng 6,65%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 213,28 tỷ đồng, bằng 101,5% dự toán và tăng 24,23%; chi sự nghiệp kinh tế 391,15 tỷ đồng, bằng 91,45% dự toán và tăng 31,34%...

2.2. Ngân hàng

Triển khai thực hiện nghiêm túc các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động Ngân hàng của Chính phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện nhiệm vụ Ngân hàng năm 2017. Theo đó việc thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt và hiệu quả phù hợp với diển biến tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, hổ trợ tăng trưởng và đảm bảo thanh khoản của các tổ chức tín dụng.

Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu các tổ chức tín dụng, Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”.

Giám sát việc thực hiện lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng. Chỉ đạo các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện các giải pháp tháo gở khó khăn cho khách hàng vay vốn do thiệt hại sau cơn bảo số 2 và số 4.

Lãi suất huy động vốn và cho vay trên địa bàn Quảng Trị năm 2017 cơ bản ổn định. Các tổ chức tín dụng chấp hành nghiêm túc lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam và lãi suất cho vay theo đúng quy định của Ngân hàng Trung ương.

Huy động vốn trên địa bàn đến 31/10/2017 đạt 17004 tỷ đồng, tăng 7,65% (+1209 tỷ đồng) so với cuối năm 2016 và tăng 18% (+2594 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu tiền gửi: tiền gửi tiết kiệm 13457 tỷ đồng, tăng 13,92% (+1644 tỷ đồng) so với cuối năm 2016; tiền gửi thanh toán 2204 tỷ đồng, giảm 10,17% (-250 tỷ đồng); huy động khác 1126 tỷ đồng, giảm 26,39% (-404 tỷ đồng). Ước tính đến 31/12/2017 huy động vốn đạt 18500 tỷ đồng, tăng 18% so với cuối năm 2016.

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 31/10/2017 đạt 24611 tỷ đồng, tăng 13,46% (+2920 tỷ đồng) so với cuối năm 2016 và tăng 21,18% (+4302 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu dư nợ cho vay: dư nợ cho vay ngắn hạn 9767 tỷ đồng, tăng 13,32% (+1148 tỷ đồng) so với cuối năm 2016; dư nợ cho vay trung và dài hạn 14844 tỷ đồng, tăng 13,55% (+1772 tỷ đồng). Ước tính đến 31/12/2017 dư nợ cho vay đạt 26250 tỷ đồng, tăng 21% so với cuối năm 2016.

Chất lượng tín dụng: nợ xấu đến 31/10/2017 là 197 tỷ đồng, chiếm 0,8% tổng dư nợ. Ước nợ xấu đến 31/12/2017 chiếm 0,7% tổng dư nợ.

3. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Năm 2017, có những yếu tố làm tăng chỉ số giá tiêu dùng như: giá dịch vụ y tế điều chỉnh tăng theo bước 2 của Thông tư Liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính; giá xăng, dầu điều chỉnh tăng do giá xăng, dầu thế giới tăng; học phí tăng theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ làm cho giá dịch vụ giáo dục tăng. Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại như: giá lương thực, thực phẩm; giá dịch vụ bưu chính viễn thông; giá dịch vụ văn hóa, giải trí và du lịch giảm…

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2017 giảm 0,06% so với tháng trước và tăng 1,87% so với tháng 12 cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 12 tháng năm 2017 tăng 4,33% so với bình quân năm 2016. Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm so với bình quân năm 2016 là: lương thực giảm 0,63%; thực phẩm giảm 2,27%; bưu chính viễn thông giảm 1,27%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,75%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: ăn uống ngoài gia đình tăng 4,40%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,50%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,07%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,10%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,21%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 69,93% (do giá dịch vụ y tế điều chỉnh tăng theo bước 2 của Thông tư Liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính); giao thông tăng 6,05% (do giá xăng dầu điều chỉnh tăng); giáo dục tăng 7,17% (do học phí các cấp học đều tăng); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,84%.

Chỉ số giá vàng tháng 12/2017 giảm 0,36% so với tháng trước và tăng 5,38% so với tháng 12 cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 12 tháng năm 2017 tăng 3,27% so với bình quân năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2017 tăng 0,01% so với tháng trước và tăng 0,14% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 12 tháng năm 2017 tăng 1,59% so với bình quân năm 2016. 

4. Đầu tư và xây dựng

Năm 2017, hoạt động đầu tư và xây dựng trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn do Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ; ngân sách nhà nước địa phương quá eo hẹp; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ, năng lực hạn chế; nguồn lực trong dân có hạn; thu hút vốn đầu tư nước ngoài gặp khó khăn; tình hình giải ngân vốn chậm…Tuy nhiên, Tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp kêu gọi đầu tư nên tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn và giá trị sản xuất xây dựng năm 2017 tăng trưởng khả quan.

4.1. Đầu tư  

Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2017 (giá hiện hành) ước tính đạt 12089,1 tỷ đồng, tăng 9,02% so với năm trước; Trong đó: Vốn nhà nước ước đạt 3178,8 tỷ đồng, chiếm 26,29% và tăng 11,64%; vốn ngoài nhà nước ước đạt 8821,5 tỷ đồng, chiếm 72,97% và tăng 8,32%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 88,8 tỷ đồng, chiếm 0,74% và giảm 8,56%.

Trong vốn đầu tư phát triển trên địa bàn, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt 8832 tỷ đồng, tăng 9,6% so với năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản ước đạt 1259,6 tỷ đồng, tăng 6,7%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chữa lớn TSCĐ ước đạt 888,6 tỷ đồng, tăng 9,04%; vốn lưu động bổ sung ước đạt 790,7 tỷ đồng, tăng 8,12%; vốn đầu tư phát triển khác ước đạt 318,2 tỷ đồng, tăng 4,93%.

Trong tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý năm 2017 ước tính đạt 1545,68 tỷ đồng, bằng 100,07% kế hoạch năm 2017 và giảm 8,04% so với năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 1313,27 tỷ đồng, bằng 100,07% kế hoạch và giảm 9,7%; vốn ngân sách huyện đạt 179,9 tỷ đồng, bằng 100,11% kế hoạch và tăng 1,06%; vốn ngân sách xã đạt 52,51 tỷ đồng, bằng 100,03% kế hoạch và tăng 8,39%. Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý năm 2017 giảm so với cùng kỳ năm trước là do kế hoạch vốn giao năm 2017 giảm so với năm 2016.

Vốn đầu tư tại các Khu công nghiệp, Khu kinh tế: Từ đầu năm đến nay BQL Khu kinh tế đã cấp và thẩm định trình UBND tỉnh cấp Quyết định chủ trương đầu tư cho 06 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư là 175,3 tỷ đồng; 02 dự án dự kiến cấp Quyết định chủ trương đầu tư trong năm 2017 với tổng vốn đăng ký đầu tư là 81,3 tỷ đồng. Tính đến nay tại các KCN, KKT có 134 dự án đã cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đầu tư là 20250 tỷ đồng (89 dự án đã đi vào hoạt động, 45 dự án đang triển khai đầu tư xây dựng).

Vốn FDI: Từ đầu năm đến nay chưa có dự án mới được cấp phép. Hiện nay số dự án đang hoạt động trên địa bàn là 11 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư là 39,23 triệu USD. Dự ước vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2017 đạt 3940,78 nghìn USD, giảm 10,29% so với năm 2016.

Vốn ODA: Từ đầu năm đến nay có 02 dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư với tổng vốn đầu tư 67,75 triệu USD (tương đương 1490 tỷ đồng). Trong năm 2017 trên địa bàn tỉnh có 25 dự án ODA đang triển khai thực hiện với tổng vốn là 5301 tỷ đồng. Kết quả giải ngân các dự án ODA từ đầu năm đến nay đạt 668 tỷ đồng, bằng 60,2% kế hoạch và tăng 40% so với năm 2016.

Vốn NGO: Từ đầu năm đến nay đã có 18 dự án NGO được phê duyệt với tổng vốn cam kết 6,31 triệu USD, kế hoạch thực hiện trong năm 2017 là 1,69 triệu USD. 

Về tiến độ giải ngân vốn: đến 30/11/2017, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện  2114,52 tỷ đồng, đạt 54,03% kế hoạch năm 2017; trong đó: nguồn vốn Trung ương quản lý thực hiện 372,67 tỷ đồng, đạt 45,96% kế hoạch; nguồn vốn địa phương quản lý thực hiện 1767,44 tỷ đồng, đạt 56,43% kế hoạch.

4.2. Xây dựng

Giá trị sản xuất xây dựng năm 2017 (giá hiện hành) ước tính đạt 9335 tỷ đồng, chủ yếu do các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện. Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở ước tính đạt 3965,5 tỷ đồng, chiếm 42,48%; công trình nhà không để ở ước tính đạt 1517,5 tỷ đồng, chiếm 16,26%; công trình kỹ thuật dân dụng ước tính đạt 3357 tỷ đồng, chiếm 35,96%; hoạt động xây dựng chuyên dụng ước tính đạt 495 tỷ đồng, chiếm 5,3%.

Giá trị sản xuất xây dựng năm 2017 (giá so sánh 2010) ước tính đạt 6806,9 tỷ đồng, tăng 6,79% so với năm trước. Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở ước tính đạt 2889,7 tỷ đồng, tăng 8,42%; giá trị sản xuất xây dựng nhà không để ở ước tính đạt 1105,9 tỷ đồng, tăng 4,96%; giá trị sản xuất xây dựng công trình kỷ thuật dân dụng ước tính đạt 2446,2 tỷ đồng, tăng 4,17%; giá trị sản xuất xây dựng công trình chuyên dụng ước tính đạt 365,1 tỷ đồng, tăng 19,05%.

5. Hoạt động của doanh nghiệp

Trong tháng 12/2016, toàn tỉnh có 06 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 703 tỷ đồng; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 117,17 tỷ đồng. Trong tháng có 02 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và 02 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động.

Tính chung cả năm 2017, có 293 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 2965 tỷ đồng; tăng 7,72% về số doanh nghiệp và tăng 77,01% về số vốn đăng ký so với năm 2016; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 10,12 tỷ đồng, tăng 84%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 111 doanh nghiệp, tăng 58,57% so với năm 2016; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 48 doanh nghiệp, tăng 1,2%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trong các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ…

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

6.1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

a1. Cây hàng năm

* Tiến độ sản xuất vụ Đông Xuân năm 2017-2018

Vụ Đông Xuân 2017-2018, lịch thời vụ muộn hơn năm trước nên một số cây trồng gieo trồng muộn. Đến nay khoai lang trồng được 41 ha, bằng 21,69% so với vụ Đông Xuân năm trước; rau các loại 231 ha, bằng 94,29%; hoa các loại 25 ha, bằng 125%.

* Kết quả sản xuất cây hàng năm  năm 2017.

Sản xuất vụ Đông Xuân 2016-2017, đầu vụ thời tiết mưa kéo dài làm một số diện tích bị ngập úng đã ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy lúa và một số cây trồng khác; tuy nhiên, trong vụ thời tiết tương đối thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng; cuối vụ tình hình sâu bệnh gia tăng, đặc biệt rầy bùng phát gây hại lúa, nhưng được sự chỉ đạo tích cực của ngành Nông nghiệp và các địa phương, đã kịp thời khống chế được dịch bệnh nên không ảnh hưởng nhiều đến năng suất lúa. Sản xuất vụ Hè Thu năm 2017 gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với cây lúa; trong cả vụ có 5 đợt nắng nóng xảy ra gay gắt, thời kỳ lúa trổ gặp nhiệt độ cao làm tăng tỷ lệ lem lép hạt trên bông lúa; hơn nửa thời tiết cũng là điều kiện thuân lợi cho sâu bệnh phát sinh và gây hại trên diện rộng, đặc biệt rầy lưng trắng xuất hiện sớm hơn mọi năm, bệnh lùn sọc đen gây hại trên diện tích 1378,6 ha…Ngoài ra, giữa vụ bảo số 4 làm ngập gần 4000 ha lúa đang trong giai đoạn làm đồng, có 1500 ha lúa bị tử đồng đã làm cho năng suất lúa vụ Hè Thu đạt thấp.

Về diện tích: Toàn tỉnh đã gieo cấy được 50302,3 ha lúa, tăng 1,1% (+546,6 ha) so với năm trước; trong đó: Vụ Đông Xuân 25752,6 ha, tăng 0,22% (+57 ha) so với vụ Đông Xuân năm 2015-2016; vụ Hè Thu 22503,4 ha, tăng 1,56% (+345,5 ha) so với vụ Hè Thu năm 2016; vụ Mùa 2046,3 ha, tăng 7,58% (+144,1 ha) so với vụ Mùa năm 2016; ngô gieo trồng 4249,1 ha, tăng 4% (+163,5 ha); khoai lang 2492,1 ha, tăng 2,17% (+53 ha); cây sắn 12295 ha, giảm 5,42% (-704,3 ha); lạc 3846,2 ha, giảm 3,24% (-128,6 ha); rau các loại 5285,4 ha, tăng 3,67% (+187 ha); đậu các loại 1761,5 ha, tăng 1,11% (+19,3 ha)…

Diện tích lúa tăng do năm nay đủ nguồn nước tưới nên một số diện tích trồng màu chuyển sang trồng lúa; diện tích sắn và lạc giảm do giá đầu vào tăng nhưng giá bán sản phẩm giảm nên bà con chuyển sang gieo trồng các loại cây khác.

Về năng suất: Năng suất lúa bình quân năm 2017 ước tính đạt 48,3 tạ/ha, giảm 4,6 tạ/ha so với năm 2016; trong đó: năng suất lúa vụ Đông Xuân 2016-2017 ước tính đạt 56,8 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha so với vụ Đông Xuân năm 2015-2016; năng suất lúa vụ Hè Thu năm 2017 đạt ước tính 42,2 tạ/ha, giảm 9,7 tạ/ha so với vụ Hè Thu năm 2016; năng suất lúa vụ Mùa ước đạt 9,8 tạ/ha, bằng vụ Mùa năm 2016; cây ngô năng suất ước đạt 33 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha; cây khoai lang năng suất ước đạt 76,5 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; cây sắn năng suất ước đạt 168,1 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; cây lạc năng suất ước đạt 19,6 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; rau các loại năng suất ước đạt 98,9 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; đậu các loại năng suất ước đạt 10,3 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha…

Năng suất lúa vụ Hè Thu giảm mạnh do ảnh hưởng của đợt mưa lớn đầu vụ (ngày 07/6/2017) làm ngập úng và ảnh hưởng gần 1500 ha; bảo số 4 (ngày 25/7/2017) làm ngập và ảnh hưởng 4000 ha lúa làm đồng, trổ bông; hơn nữa, thời  tiết nắng nóng và sâu bệnh phát sinh, gây hại trên diện rộng đã ảnh hưởng đến năng suất.

Về sản lượng: Tính chung năm nay, tổng sản lượng lương thực có hạt ước tính đạt 257180,4 tấn, giảm 6,79% (-18746,1tấn); trong đó: sản lượng lúa ước tính đạt 243148,2 tấn, giảm 7,57% (-19905,9 tấn). Sản lượng lúa vụ Đông Xuân 2016-2017 đạt 146158,1 tấn, giảm 0,1% (-142,9 tấn) so với vụ Đông Xuân năm 2015-2016. Sản lượng lúa vụ Hè Thu năm 2017 đạt 94984,7 tấn, giảm 17,33 % (-19906,5 tấn) so với vụ Hè Thu năm 2016. Sản lượng lúa vụ Mùa ước tính đạt 2005,4 tấn, tăng 7,71% (+143,5 tấn) so với vụ Mùa năm 2016. Sản lượng ngô ước tính đạt 14032,2 tấn, tăng 9,01% (+1159,9 tấn). Sản lượng khoai lang ước tính đạt 19065,8 tấn, tăng 5,28% (+956,4 tấn). Sản lượng sắn ước tính đạt 206671,7 tấn, giảm 5,36% (-11716,5 tấn). Sản lượng lạc ước tính đạt 7524 tấn, giảm 1,17% (-89,1 tấn). Sản lượng rau các loại ước tính đạt 52266,7 tấn, tăng 6,13% (+3020,1 tấn). Sản lượng đậu các loại ước tính đạt 1817 tấn, tăng 2,83% (+50 tấn)…

Tình hình sâu bệnh hại lúa:

Công tác phòng trừ sâu bệnh ở một số địa phương chưa quyết liệt, thời vụ muộn và dàn trãi là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều lứa rầy gối nhau, khó phòng trừ, là môi giới gây ra bệnh lùn sọc đen trên diện rộng; công tác chỉ đạo phòng trừ rầy chưa kịp thời, chưa triệt để. Sự chủ quan của chính quyền địa phương và người nông dân về dịch bệnh, dẫn đến sự thiếu chủ động và quyết liệt ngay từ đầu trong công tác phòng trừ sâu bệnh.

 Lực lượng cán bộ chuyên ngành BVTV tại các huyện quá ít (2 – 3 cán bộ) trong khi đó diện tích cây trồng rất lớn và đa dạng, trang thiết bị phục vụ công tác  dự báo còn thiếu. Một số đối tượng sâu bệnh như: Lùn sọc đen là bệnh do virus nên chỉ phát hiện thông qua các xét nghiệm hoặc phân tích PCR, khó phát hiện triệu chứng biểu hiện bên ngoài do đó công tác điều tra, phát hiện, thống kê gặp rất nhiều khó khăn….

Trong vụ Hè Thu, có thời điểm trên cây lúa, diện tích nhiễm rầy gần 4000 ha, trong đó nhiễm nặng 454 ha. Mật độ rầy phổ biến 1500 con/m2, nơi cao 2000-5000 con/m2, cục bộ có nơi 7000-10000 con/m2. Bệnh khô đầu lá sinh lý diện tích nhiễm 1330 ha, trong đó nhiễm nặng 203 ha…

a2. Cây lâu năm

Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có 34435,3 ha, giảm 1,06% (-370,3 ha) so với năm trước. Một số cây lâu năm chủ yếu của tỉnh như:

Cây cà phê: diện tích hiện có 5109,8 ha, giảm 4,48% so với năm 2016; diện tích trồng mới trong năm là 137 ha, tăng 9,25%; diện tích thu hoạch 4733,7 ha, giảm 2,87%; năng suất ước đạt 14,5 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước tính đạt 6877,3 tấn, tăng 2,74% (+183,6 tấn). Cây cà phê diện tích tập trung tại huyện miền núi Hướng Hóa, cây cà phê mít kém hiệu quả nên diện tích giảm nhiều, còn lại chủ yếu là cà phê chè (Catimo). Cây cà phê năm nay được mùa, giá cà phê tăng khá nên người trồng cà phê phấn khởi đầu tư thâm canh.

Cây cao su: diện tích hiện có 19511,4 ha, giảm 2,18% so với năm 2016; diện tích trồng mới trong năm là 418,9 ha, giảm 26,3%; diện tích thu hoạch 10861,3 ha, tăng 1,59%; năng suất ước đạt 12,6 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước tính đạt 13691,5 tấn, tăng 6,36% (+818,5 tấn). Giá mủ cao su năm nay có tăng so với năm trước, sản lượng mũ cao su tăng do thời tiết thuận lợi cho khai thác.

Cây hồ tiêu: diện tích hiện có 2520,1 ha, tăng 2,95% so với năm 2016; diện tích trồng mới trong năm là 110,9 ha, giảm 22,61%; diện tích thu hoạch 1918,4 ha, tăng 5,09%; năng suất ước đạt 12,2 tạ/ha, tăng 1,7 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 2346,9 tấn, tăng 22,32% (+428,3 tấn).

Cây chuối: diện tích hiện có 4541,3 ha, giảm 4,05% so với năm 2016; diện tích trồng mới trong năm là 283,8 ha, giảm 17,81%; diện tích thu hoạch 4219,8 ha, giảm 2,44%; năng suất ước đạt 163 tạ/ha, tăng 6,5 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 68800,6 tấn, tăng 1,6% (+1085,6 tấn). Cây chuối tập trung chủ yếu ở huyện miền núi Hướng hóa, chiếm 80% diện tích chuối toàn tỉnh, phù hợp với điều kiện khí hậu vùng này, cho thu nhập ổn định quanh năm nên bà con tập trung đầu tư.

Cây dứa: diện tích hiện có 496,9 ha, tăng 25,61% so với năm 2016; diện tích trồng mới trong năm là 138,5 ha, bằng 4,14 lần; diện tích thu hoạch 378 ha, tăng 6,57%; năng suất ước đạt 69,7 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 2633,6 tấn, tăng 10,35% (+247,1 tấn). Cây dứa diện tích hiện có và trồng mới tăng cao là do năm nay Tỉnh đã triển khai dự án trồng dứa nguyên liệu tại các huyện Cam Lộ, Vĩnh Linh, Gio Linh…

b. Chăn nuôi

Theo kết quả điều tra chăn nuôi 01/10/2017, đàn trâu có 26382 con, giảm 1,12% so với cùng kỳ năm 2016; đàn bò có 67462 con, giảm 2,82%; đàn lợn có 271015 con, giảm 5,52%; đàn gia cầm có 2495 nghìn con, giảm 1,77%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2017 ước tính đạt 40339 tấn, giảm 3,76% so với năm trước; trong đó: thịt lợn đạt 29373 tấn, giảm 8,18%.

Số lượng đàn trâu, bò giảm do người chăn nuôi giảm số lượng nhưng nâng cao chất lượng tổng đàn; bỏ dần hình thức nuôi nhỏ lẻ, chăn thả sang nuôi thâm canh, nuôi vỗ béo cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Đàn lợn giảm do đầu năm 2017  giá bán thịt lợn hơi giảm mạnh, người chăn nuôi phải chịu lỗ nên hạn chế đầu tư. Đàn gia cầm giá bán ổn định, dịch bệnh ít xảy ra nên sản lượng tăng khá…

* Tình hình dịch bệnh: Trong năm 2017, một số dịch bệnh đã xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm. Dịch cúm gia cầm H5N6 xảy ra 02 đợt tại 02 xã Triệu Ái (huyện Triệu Phong) và xã Gio Mai (huyện Gio Linh); tổng số gia cầm  chết, tiêu hủy 1287 con. Dịch cúm gia cầm H5N1 xảy ra tại xã Triệu Độ (huyện Triệu Phong); tiêu hủy 1500 con vịt…

 Dịch LMLM xảy ra tại xã Gio Sơn (huyện Gio Linh); tổng số gia súc mắc bệnh 47 con bò, 20 con lợn, tiêu hủy 11 con lợn…

6.2. Lâm  nghiệp

Năm 2017, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 7531 ha, tăng 25,52% so với năm 2016; số cây trồng phân tán ước đạt 2500 nghìn cây, giảm 2,65%; diện tích rừng trồng được chăm sóc ước đạt 24550 ha, tăng 1,6%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh ước đạt 1600 ha, bằng năm 2016; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 52686 ha, giảm 3,05%. Tính đến nay, tỉnh Quảng Trị có trên 21000 ha rừng trồng được cấp chứng chỉ FSC. Mặc dù diện tích rừng được cấp chứng chỉ chưa nhiều nhưng đã có những thay đổi trong tư duy sản xuất đối với các chủ rừng, góp phần tích cực cho công nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ ra thị trường quốc tế và đáp ứng mục tiêu tái cơ cấu ngành lâm nghiệp trong giai đoạn 2016-2020.

Sản lượng gỗ khai thác năm 2017 ước đạt 465000 m3, tăng 6,87% so với  năm 2016; khai thác củi ước đạt 206000 ste, giảm 6,36%; khai thác nhựa thông ước đạt 1976 tấn, giảm 8,52%...Sản lượng gỗ khai thác tăng cao là do thời tiết thuận lợi cho hoạt động khai thác; nhu cầu gỗ nguyên liệu cho các nhà máy gỗ ép, nhà máy dăm, cơ sở chế biến gỗ ghép thanh… tăng. Sản lượng khai thác củi giảm do hiện nay nhu cầu củi làm chất đốt, phục vụ đời sống ngày càng giảm nên sản lượng giảm dần.

Thiệt hại rừng: Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về công tác phòng chống cháy rừng, trước những diễn biến của tình hình thời tiết cực đoan, nhất là trong điều kiện khô hạn, nắng nóng và nhiệt độ tăng cao, nguy cơ cháy rừng có thể xảy ra, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp, chỉ đạo các chủ rừng, các xã, các hộ gia đình nghiêm chỉnh chấp hành nhằm hạn chế thấp nhất cháy rừng có thể xảy ra. Từ đầu năm đến nay, theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm toàn tỉnh không có vụ cháy rừng nào xảy ra.

Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Tính từ đầu năm đến nay, đã phát hiện, bắt giữ 342 vụ vi phạm hành chính; xử lý hành chính 333 vụ; lâm sản tịch thu 761 m3 gỗ các loại và 406 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.

6.3. Thủy sản

Năm 2017, thời tiết thuận lợi cho hoạt động đánh bắt thủy sản; môi trường biển đã phục hồi, bà con ngư dân đã yên tâm ra khơi đánh bắt hải sản; riêng hoạt động nuôi tôm nước lợ đang gặp khó khăn, một số diện tích nuôi tôm xuất hiện dịch bệnh.

Đến nay, số tàu thuyền khai thác có động cơ toàn tỉnh có 2113 chiếc, tăng 13,06% (+244 chiếc) với tổng công suất 105110 CV, tăng 18,09% (+16099 CV) so với cùng thời điểm năm trước. Theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP đến nay đã có 25/32 chủ tàu được hợp đồng đóng mới (17 tàu vỏ thép, 07 tàu vỏ gỗ và 01 tàu vỏ composite), đã hoàn thành đưa vào hoạt động 22 tàu (14 tàu vỏ thép và 07 tàu vỏ gỗ và 01 tàu vỏ composite); nâng cấp 84/116 tàu đã hoàn thành đưa vào hoạt động.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 246 lồng nuôi thủy sản, tăng 5,79% (+13 lồng) so với cùng kỳ năm 2016.

Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2017 ước tính đạt 3317,5 ha, tăng 1,67% so với năm trước; trong đó: nuôi cá 2099,2 ha, giảm 3,45%; nuôi tôm 1184,5 ha, tăng 11,52%; nuôi thủy sản khác 8,4 ha, tăng 68%.

Tổng sản lượng thủy sản năm 2017 ước tính đạt 30829,5 tấn, tăng 29,57% so với năm trước; trong đó: cá 23479 tấn, tăng 38,29%; tôm 4049,6 tấn, giảm 11,06%; thủy sản khác 3300,9 tấn, tăng 45,86%. Cụ thể:  

Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 7243,5 tấn, giảm 10,25% so với năm trước; trong đó: cá 3478,5 tấn, giảm 4,52%; tôm 3744 tấn, giảm 15,08%. Sản lượng cá nuôi giảm do nuôi cá nước ngọt nhỏ, lẻ, kém hiệu quả nên diện tích giảm; riêng sản lượng tôm nuôi giảm do năm trước ảnh hưởng dịch bệnh nên bà con không thả nuôi vụ 2 năm 2016 nên những tháng đầu năm 2017 sản lượng thu hoạch thấp; hơn nữa, dịch bệnh trên tôm nuôi trong năm 2017 phần nào đã ảnh hưởng đến sản lượng.

Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 23586 tấn, tăng 50,01% so với năm trước; trong đó: cá 20000,5 tấn, tăng 49,99%; tôm 305,6 tấn, tăng 112,22%; thủy sản khác 3279,9 tấn, tăng 46,16%. Sản lượng thủy sản khai thác trong năm 2017 tăng cao so với năm trước do năm trước ảnh hưởng sự cố ô nhiễm môi trường biển, đến đầu năm 2017 thông tin biển miền Trung an toàn tuyệt đối về môi trường nước biển và trầm tích đáy biển khiến lòng tin của người dân càng được củng cố. Mặt khác, số tiền đền bù do sự cố môi trường biển được ngư dân sử dụng vào việc cải tạo, nâng cấp, đóng mới tàu thuyền, sắm các ngư lưới cụ phục vụ đánh bắt thủy sản. Nhờ đó đã giúp ngư dân thu được kết quả tích cực, nhiều ngư dân mạnh dạn vay vốn đóng tàu thuyền từ khai thác gần bờ sang xa bờ, bước đầu thu được lợi nhuận kinh tế cao.

Dịch bệnh thủy sản: Năm 2017, dịch bệnh tôm nuôi đã xảy ra ở 17 xã, thị trấn của 04 huyện (Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng) với diện tích bị bệnh là 311,83 ha. Các loại bệnh xảy ra là hoại tử gan tụy cấp tính và đốm trắng.  

7. Sản xuất công nghiệp

Năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khá cao so với năm trước. Một số doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh nên sản xuất tăng khá: Công ty CP Thương mại Quảng Trị (sản xuất tinh bột sắn), Công ty TNHH cao su camel Việt Nam (ngoài sản xuất săm lốp xe máy, xe đạp còn đầu tư sản xuất thêm lốp ô tô), Công ty CP phân bón Bình Điền (sản xuất phân bón NPK), Công ty may Hòa Thọ. Một số dự án hoàn thành đi vào hoạt động làm cho sản lượng tăng: Dây chuyền 2 của Nhà máy gỗ MDF- VRG Quảng Trị, Nhà máy Bia Hà Nội thu hút được khách hàng, Công ty TNHH Tuấn Ngọc SURMI sản xuất chả cá, Công ty TNHH dệt may VINATEX Quốc tế Tom, Nhà máy điện gió Hướng Linh đi vào hoạt động. Các nhà máy thủy điện do lòng hồ đủ nước nên hoạt động liên tục, một số doanh nghiệp sản xuất dăm gỗ do nhu cầu khách hàng tăng nên sản lượng tăng…

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12/2017 ước tính tăng 2,4% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 15,57%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,68%; sản xuất và phân phối điện giảm 0,34%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 9,21%. So với tháng cùng kỳ năm trước ước tính tăng 13,03%; trong đó: ngành khai khoáng tăng 5,24%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,72%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,74%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 14,97%.

Tính chung năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 15,01% so với năm trước; trong đó: ngành khai khoáng tăng 5,25%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,96%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,83%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,44%.

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất năm 2017 so với năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 17,52%; sản xuất đồ uống tăng 21,52%; sản xuất trang phục tăng 17,34%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 24,15%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 28,99%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,83%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: khai thác quặng kim loại tăng 2,79%; khai khoáng khác tăng 8,52%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 10,33%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 12,17%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 12,05%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 4,67%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,29%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 1,47%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 2,08%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 3,96%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 12,39%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: dệt giảm 22,46%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 30,37%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 7,35%.

 Một số sản phẩm chủ yếu trong năm 2017 so với năm trước tăng cao là: bia lon tăng 24,48%; bộ comple, quần áo tăng 22,06%; ván ép từ gỗ tăng 51,29%; phân hóa học tăng 29,96%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 21,90%; săm dùng cho xe máy, xe đạp tăng 17,94%; điện sản xuất tăng 39,21%. Một số sản phẩm tăng thấp là: quặng inmenit và tinh quặng inmenit tăng 10,98%; đá xây dựng tăng 5,92%; tinh bột sắn tăng 5,24%; nước hoa quả, tăng lực tăng 14,1%; dăm gỗ tăng 4,72%; xi măng đen tăng 7,86%; điện thương phẩm tăng 1,49%; nước máy tăng 9,79%. Một số sản phẩm giảm là: quặng titan và tinh quặng titan giảm 31,86%; quặng zircon và tinh quặng zircon giảm 11,57%; gỗ cưa hoặc xẻ giảm 6,38%; dầu nhựa thông giảm 6,64%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 1,29%; tấm lợp proximăng giảm 0,28%...

8. Hoạt động thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Thị trường bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2017 tại Quảng Trị khá sôi động; hàng hóa phong phú, đa dạng; chất lượng đảm bảo; mẫu mã đẹp. Trong điều kiện giá cả thị trường ổn định, môi trường biển đã phục hồi nên sản lượng hải sản khai thác tăng khá, hoạt động kinh doanh dịch vụ tại các điểm du lịch biển nhộn nhịp hơn; Hơn nữa, năm 2017 tại Quảng Trị tổ chức kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, 45 năm ngày giải phóng Quảng Trị, 70 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ… nên lượng khách đến Quảng Trị tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khá so với năm trước. Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố kìm hảm tốc độ tăng Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng như: giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi giảm mạnh; sức mua của một bộ phận dân cư giảm sút…

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2017 ước tính đạt 2072,7 tỷ đồng, tăng 2,57% so với tháng trước và tăng 12,16% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1748,1 tỷ đồng, tăng 2,88% so với tháng trước và tăng 12,01% so với tháng cùng kỳ năm trước; tương ứng doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 232,1 tỷ đồng, tăng 0,85% và 14,48%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,5 tỷ đồng, giảm 2,04% và tăng 5,31%; doanh thu dịch vụ khác đạt 90 tỷ đồng, tăng 1,32% và 10,45%.

Tính chung năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 24608 tỷ đồng, tăng 11,12% so với năm trước (Nếu loại trừ yếu tố giá cả tăng khoảng 6%).

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2017 ước tính đạt 20934,9 tỷ đồng, chiếm 85,07% tổng mức và tăng 10,63% so với năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ cao và tăng khá so với cùng kỳ năm trước: hàng lương thực, thực phẩm tăng 10,28%; hàng may mặc tăng 13,67%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 10,89%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,61%; phương tiện đi lại tăng 11,76%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống năm 2017 ước tính đạt 2614,7 tỷ đồng, chiếm 10,63% tổng mức và tăng 15,36% so với năm trước.

Doanh thu du lịch lữ hành năm 2017 ước tính đạt 31,9 tỷ đồng, chiếm 0,13% tổng mức và tăng 9,75% so với năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác năm 2017 ước tính đạt 1026,5 tỷ đồng, chiếm 4,17% tổng mức và tăng 10,78% so với năm trước.

8.2. Hoạt động vận tải

Hoạt động kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh năm 2017 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng; kinh tế tiếp tục phát triển nên nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của dân cư tăng; số lượng và chất lượng phương tiện vận tải ngày càng tăng; giá xăng dầu có tăng nhưng không nhiều nên giá cước vận tải ít biến động; vận tải hành khách có thêm tuyến xe buýt Cam Lộ - Cửa Việt - Cửa Tùng được đưa vào khai thác…

Doanh thu vận tải tháng 12/2017 ước tính đạt 103,7 tỷ đồng, tăng 4,97% so với tháng trước, trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước tính đạt 37,5 tỷ đồng, tăng 2,95%; doanh thu vận tải hàng hóa ước tính đạt 64,6 tỷ đồng, tăng 6,15%; doanh thu kho bãi và dịch vụ hổ trợ vận tải ước tính đạt 1,6 tỷ đồng, tăng 6,03%. Tính chung năm 2017, doanh thu vận tải ước tính đạt 1216,5 tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước tính đạt 445,4 tỷ đồng, tăng 18,03%; doanh thu vận tải hàng hóa ước tính đạt 751,6 tỷ đồng, tăng 5,72%; doanh thu kho bãi và dịch vụ hổ trợ vận tải ước tính đạt 19,5 tỷ đồng, giảm 50,74%. Chia theo ngành vận tải: vận tải đường bộ thực hiện 1205,2 tỷ đồng, chiếm 99,07%, tăng 7,84%; vận tải đường biển thực hiện 11,3 tỷ đồng, chiếm 0,93%, tăng 68,08%. Phân theo loại hình kinh tế: khu vực nhà nước ước tính đạt 10 tỷ đồng, tăng 114,98%; khu vực ngoài nhà nước ước tính đạt 1206,5 tỷ đồng, tăng 7,15%.

Vận tải hành khách: số lượt hành khách vận chuyển tháng 12/2017 ước  tính đạt 828,2 nghìn HK, tăng 1,85% so với tháng trước, đều do thành phần kinh tế ngoài nhà nước và vận tải đường bộ thực hiện; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 53,3 triệu HK.km, tăng 2,49%. Tính chung năm 2017, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 7225,1 nghìn HK, tăng 3,82% so với năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước tính đạt 612,04 triệu HK.km, tăng 5,36%.

Vận tải hàng hóa: khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 12/2017 ước tính đạt 878,71 nghìn tấn, tăng 3,37% so với tháng trước; tất cả đều do thành phần kinh tế ngoài nhà nước và chủ yếu vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 88,64 triệu tấn.km, tăng 5,9%. Tính chung năm 2017, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 8947,79 nghìn tấn, tăng 5,41% so với năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 660,66 triệu tấn.km, tăng 5,32%.

8.3. Khách du lịch

Tại Quảng Trị, chủ yếu phát triển loại hình du lịch truyền thống như về thăm chiến trường xưa, thăm các di tích lịch sử, du lịch tâm linh…Năm 2017, trên địa bàn tỉnh đã tổ chức nhiều Lễ hội; trong đó: nỗi bật là Lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, 45 năm ngày giải phóng Quảng Trị, 70 năm ngày Thương binh – Liệt sỹ …với nhiều hoạt động phong phú nên lượng khách đến Quảng Trị tăng.

Số lượt khách lưu trú tháng 12/2017 ước tính đạt 24463 lượt, giảm 2,33% so với tháng trước và tăng 7,79% so với tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú ước tính đạt 37186 ngày khách, giảm 2,93% so với tháng trước và tăng 6,41% so với tháng cùng kỳ năm trước; lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 818 lượt, giảm 2,27% so với tháng trước và tăng 8,05% so với tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách du lịch theo tour ước tính đạt 1680 ngày khách, giảm 1,18% so với tháng trước và tăng 8,76% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Tính chung năm 2017, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 388443 lượt, tăng 8,78% so với năm trước; số ngày khách lưu trú ước tính đạt 357980 ngày khách, tăng 8,79%; lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 14070 lượt, tăng 8,75%; ngày khách du lịch theo tour ước tính đạt 36974 ngày khách, tăng 8,91%.

8.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông

* Hạ tầng bưu chính: hạ tầng bưu chính phát triển ổn định. Hiện nay, 141/141 xã, phường, thị trấn có điểm phục vụ bưu chính với 167 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó: 43 bưu cục, 1 bưu cục Hệ 1; 109/130 xã, phường có điểm Bưu điện Văn hóa xã; 6 đại lý chuyển phát; 8 thùng thư công cộng độc lập. 94/141 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị, thành phố có báo đến trong ngày (riêng huyện đảo Cồn Cỏ chưa có). Bán kính phục vụ bình quân 3,07 km/1 điểm phục vụ; số dân được phục vụ là 3850 người/1 điểm phục vụ. 86 tuyến đường thư, trong đó có 02 tuyến đường thư cấp I, 04 tuyến cấp II và 80 tuyến cấp III.

* Hạ tầng viễn thông: Hạ tầng viễn thông được nâng cấp, mở rộng và nâng cao chất lượng với 2020 trạm thu, phát sóng thông tin di động, bán kính phục vụ 1,4km/cột; 100% xã, phường, thị trấn được phủ sóng thông tin di động 3G, 4G và kết nối internet băng thông rộng (trừ huyện đảo Cồn Cỏ chưa có cáp quang). Mật độ thuê bao điện thoại toàn tỉnh đạt 92,8 thuê bao/100 dân, mật độ thuê bao internet 9 thuê bao/100 dân, 322 điểm truy cập Internet công cộng.

Ước tính đến 31/12/2017, toàn tỉnh có 582379 thuê bao điện thoại, tăng 0,53% so với cùng thời điểm năm trước. Trong tổng số thuê bao điện thoại hiện có, số thuê bao cố định 16955 thuê bao, giảm 16,59%; số thuê bao di động 565424 thuê bao, tăng 1,15%. Số thuê bao điện thoại phát triển mới năm 2017 là 147655 thuê bao, giảm 3,28% so với năm 2016. Số thuê bao Internet hiện có là 62140 thuê bao, tăng 31,12% so với cùng thời điểm năm trước. Số thuê bao Internet phát triển mới trong năm 2017 là 16342 thuê bao, tăng 35,9% so với năm 2016.

II. VĂN HÓA - XÃ HỘI

1. Dân số, lao động, việc làm

1.1. Dân số, kế hoạch hóa gia đình

Dự ước dân số trung bình năm 2017 là 627558 người, tăng 0,65% so với năm 2016; trong đó: nam 308131 người, chiếm 49,1%, tăng 0,68%; nữ 319427 người, chiếm 50,9%, tăng 0,61%; thành thị 187012 người, chiếm 29,8%, tăng 1,16%; nông thôn 440546 người, chiếm 70,2%, tăng 0,43%.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản được tăng cường. Năm 2017 ước tỷ lệ sinh 18,2%0, giảm 0,04%0 so với năm 2016; tỷ lệ chết 7,15%0, giảm 0,05%0; tỷ lệ tăng tự nhiên dân số 11,05%0, tăng 0,01%0.

1.2. Lao động, việc làm

Lực lượng lao động toàn tỉnh ước tính đến 31/12/2017 là 351168 người, chiếm 55,96% dân số và tăng 0,66% so với năm 2016. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính 342146 người, chiếm 97,43% lực lượng lao động của tỉnh và tăng 1,07% so với năm 2016. Tỷ lệ thất nghiệp chung năm 2017 ước tính khoảng 2,6%, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước tính khoảng 2,9% (năm 2016 là 3,31%).

Ước tính cả năm 2017 toàn tỉnh tuyển sinh đào tạo nghề 9600 người (Cao đẳng 300 người, Trung cấp 600 người, sơ cấp và đào tạo thường xuyên 8700 người). Ước đến cuối năm 2017, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49,5%, qua đào tạo nghề đạt 36%, qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt trên 29%.

Đã tổ chức 15 phiên giao dịch việc làm; có 1840 lao động được cung ứng, giới thiệu có việc làm (1329 lao động làm việc trong tỉnh, 282 lao động làm việc ngoài tỉnh và 229 lao động làm việc ở nước ngoài). Tư vấn cho 33200 lượt người, tổ chức, đơn vị về thông tin thị trường lao động; tạo cơ hội cho người lao động tìm kiếm được việc làm trong nước, XKLĐ, du học và học nghề.

Ước tính năm 2017 toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho khoảng 11782 lao động, tăng 11,15% so với năm 2016.

Đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho 1771 lao động và đã giải quyết cho 1714 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền chi trợ cấp hơn 17,4 tỷ đồng.

2. Tình hình đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

2.1. Đời sống dân cư

Năm 2017, tình hình trong tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn; giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi xuống thấp làm cho một bộ phận dân cư gặp khó khăn; tình hình thiên tai, dịch bệnh diển biến phức tạp; môi trường biển tuy đã phục hồi nhưng ảnh hưởng vẫn còn nặng nề; thu ngân sách, thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; nhưng các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, chính sách, huy động các nguồn lực để thúc đẩy kinh tế phát triển. Kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng khá, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh có nhiều cải thiện về vật chất và tinh thần; văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện; các chính sách an sinh xã hội được chú trọng; tình hình an ninh, chính trị ổn định; trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo.

Tình hình thiếu đói trong khu vực nông thôn: Năm 2017, sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân được mùa, vụ Hè Thu gặp thời tiết mưa lũ và dịch bệnh nên sản lượng lúa đạt thấp; sản lượng lúa cả 3 vụ chỉ đạt trên 24,3 vạn tấn, giảm 7,57% so với năm trước. Tình hình chăn nuôi gặp khó khăn về giá bán nên sản lượng thịt hơi xuất chuồng giảm 3,76% so với năm trước. Đánh bắt thủy sản tuy chưa phục hồi như trước khi ô nhiễm môi trường biển xảy ra, nhưng tổng sản lượng thủy sản đã tăng 29,57% so với năm trước; công tác đền bù thiệt hại do sự cố ô nhiễm môi trường biển đến nay đã cơ bản hoàn thành, đã chi trả trên 1000 tỷ đồng, kịp thời giúp người dân bị ảnh hưởng khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống…Với những cố gắng, nỗ lực của người dân; cùng với các biện pháp hổ trợ của các cấp chính quyền nên trong năm 2017 tình hình thiếu đói trong khu vực nông thôn không xảy ra.

Về đời sống của cán bộ, công chức và người lao động trong các doanh nghiệp: Theo Nghị định số 47/2017/NĐ-CP, từ ngày 1/7/2017 mức lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức… tăng từ 1210000 đồng lên 1300000 đồng; Theo Nghị định số 153/2016/NĐ-CP, từ ngày 01/01/2017 mức lương tối thiểu vùng của người lao động trong các doanh nghiệp tăng thêm từ 180000 - 250000 đồng/tháng, đã góp phần ổn định đời sống cán bộ, công chức và người lao động trong các doanh nghiệp.

2.2. Công tác giảm nghèo

Kết quả điều tra hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh cuối năm 2016 là 13,49% (22313 hộ nghèo). Dự kiến, năm 2017 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 1,7% (- 2687 hộ nghèo); đến cuối năm 2017 hộ nghèo toàn tỉnh còn lại 11,79% (19626 hộ nghèo). Trong đó: dự kiến hộ nghèo của huyện nghèo Đakrông giảm 4,5% (-218 hộ nghèo); đến cuối năm 2017 hộ nghèo của huyện Đakrông còn 47% (4592 hộ nghèo).

Kế hoạch năm 2017, tổng nguồn vốn bố trí thực hiện chính sách, dự án giảm nghèo trên địa bàn tỉnh là 973637 triệu đồng, bao gồm: nguồn vốn thực hiện các chính sách giảm nghèo theo Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ là 864086 triệu đồng; nguồn vốn thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là 84551 triệu đồng; Quỹ “Ngày vì người nghèo” các cấp trong tỉnh 17500 triệu đồng; nguồn vốn huy động khác 7500 triệu đồng.

Tổng số lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn là 15538 lượt hộ, với tổng số tiền cho vay là 458000 triệu đồng (trong đó: 2857 lượt hộ nghèo vay vốn với doanh số cho vay 98700 triệu đồng).

Thực hiện cấp 170957 thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn và người dân ở vùng đặc biệt khó khăn;  tổng kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế là 87,9 tỷ đồng. Thực hiện miển giảm học phí cho 24810 học sinh thuộc hộ nghèo và hổ trợ chi phí học tập cho 27401 học sinh thuộc hộ nghèo; tổng kinh phí là 18900 triệu đồng…

2.3. Thực hiện chính sách người có công

Theo Quyết định Số 01/QĐ-CTN ngày 03/01/2017 của Chủ tịch Nước về việc tặng quà cho các đối tượng người có công với cách mạng nhân dịp Tết Đinh Dậu năm 2017, có 32720 lượt người có công và thân nhân được nhận quà Chủ tịch Nước với tổng kinh phí trên 6670,4 triệu đồng; thăm và tặng quà 18 gia đình người có công tiêu biểu; chuyển tiền hương khói đến 20054 gia đình Bà mẹ VNAH và thân nhân liệt sĩ với trị giá 2005,4 triệu đồng.

Trong dịp Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh, Liệt sỹ 27/7, toàn tỉnh đã thăm và tặng quà cho người có công và thân nhân người có công với 40879 suất quà, tổng trị giá 10422,9 triệu đồng (Trong đó: Quà Chủ tịch nước 26268 suất quà với trị giá 5359,8 triệu đồng; quà cấp tỉnh 36 suất với trị giá 43,2 triệu đồng; quà cấp huyện 3141 suất với trị giá 907,750 triệu đồng; quà các đơn vị khác 3980 suất quà với trị giá 2552,890 triệu đồng).

Tổ chức Lễ phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, đưa tổng số Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trên địa bàn tỉnh lên 2550 mẹ, trong đó có 62 mẹ đang còn sống. Đến nay 100% mẹ còn sống được phụng dưỡng suốt đời.

Đến nay đã vận động được 6391 triệu đồng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; tặng 123 sổ tiết kiệm tình nghĩa cho người có công với cách mạng trị giá 5 triệu đồng/sổ; với nguồn kinh phí quỹ đền ơn đáp nghĩa và vận động các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh đã triển khai khởi công xây dựng 254 nhà tình nghĩa cho các đối tượng có công với cách mạng với kinh phí 16,52 tỷ đồng, đã khởi công 45 công trình tại nghĩa trang liệt sỹ trên địa bàn toàn tỉnh với kinh phí trên 100 tỷ đồng…

2.4. Bảo trợ xã hội

Trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017, UBND tỉnh đã phân bổ 1486 tấn  gạo (của Chính phủ hỗ trợ) để cứu trợ cho 31363 hộ (99066 nhân khẩu) có hoàn cảnh khó khăn và hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

Các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đã tặng 35430 suất quà cho hộ nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với tổng giá trị 15457 triệu đồng.

Tính đến nay, toàn tỉnh có 31956 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; trong đó: 12973 người khuyết tật; 1452 đối tượng đơn thân nuôi con nhỏ; 210 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 948 người cao tuổi cô đơn; 13275 người từ đủ 80 tuổi trở lên; 19 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 3039 hộ gia đình nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng; 40 gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em không nơi nương tựa.

Các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội được các ngành, các cấp quan tâm triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả, tạo điều kiện cho các đối tượng bảo trợ xã hội vượt qua khó khăn, sống hòa nhập với cộng đồng và xã hội.

3. Giáo dục, đào tạo

Năm học 2016-2017, Ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì ổn định và có bước phát triển mới: Cấp tiểu học có 56169 học sinh, trong đó: số học sinh hoàn thành chương trình lớp học là 55110 em, chiếm 98,12%; số học sinh chưa hoàn thành chương trình là 947 em, chiếm 1,69%. Cấp trung học cơ sở có 42053 học sinh, trong đó: giỏi 22,38%, khá 37,42%, trung bình 36,4%, yếu 3,14%, kém 0,11% (năm học trước tương ứng là: 22,5%, 37,5%, 35,8%, 3,4%, 0,1%). Trung học phổ thông có 22308 học sinh, trong đó: giỏi 11,79%, khá 50,04%, trung bình 33,9%, yếu 4,04%, kém 0,22% (năm học trước tương ứng là: 11,50%, 50,2%, 33,2%, 4,73%, 0,3%).

Năm nay có 10696 học sinh được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học, đạt 99,8%, tăng 0,9% so với năm học trước; có 9502 học sinh đạt tiêu chuẩn tốt nghiệp THCS, đạt 99,7%, tăng 0,08%; Kết quả tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT năm 2017 tại Quảng Trị đạt 95,42%, tăng 5,2% so với năm học trước (có 6906 học sinh tốt nghiệp THPT, đạt 95,9%, tăng 5,04%; có 224 học sinh tốt nghiệp bổ túc THPT, đạt 82,66%, tăng 5,6%.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hóa lớp 12 THPT cấp quốc gia năm học 2016 - 2017, tỉnh Quảng Trị có 54 thí sinh dự thi, có 14 em đạt giải (02 giải nhì, 06 giải ba và 06 giải khuyến khích). Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hóa lớp 12 THPT cấp tỉnh có 1191 thí sinh dự thi, có 676 em đạt giải ( 24 giải nhất, 140 giải nhì, 225 giải ba và 287 giải khuyến khích). Có 01 học sinh đạt huy chương Bạc tại Kỳ thi Tìm kiếm tài năng Toán học trẻ toàn quốc lần thứ 2, do Hội Toán học Việt Nam tổ chức vào tháng 4/2017. Tiêu biểu là em Phạm Huy, học sinh Trường THPT thị xã Quảng Trị, đạt giải Nhất chung cuộc Cuộc thi Khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp quốc gia, và đạt giải Ba tại Cuộc thi Khoa học kỹ thuật quốc tế - Intel ISEF 2017; em Võ Thục Khánh Huyền, học sinh Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, đạt huy chương Bạc tại Kỳ thi Olympic Toán học Singapore và Châu Á - SASMO 2017; em Phan Đăng Nhật Minh, học sinh Trường THPT Hải Lăng đã đạt giải Nhất chung kết cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 17…

Tổ chức kỳ thi khảo sát năng lực giáo viên ở tất cả các cấp học; kết quả:  mầm non có 841 GV tham gia, có 812 GV đạt từ trung bình trở lên (tỷ lệ 96,55%); cấp Tiểu học có 904 GV tham gia, trong đó đạt 5 điểm trở lên môn Tiếng Việt là 886 GV (tỷ lệ 95,8%), môn Toán là 883 GV (tỷ lệ 97,7%); cấp THCS có 861 GV tham gia, có 767 GV đạt từ trung bình trở lên (tỷ lệ 89,08%); cấp THPT có 423 GV tham gia, có 378 GV  đạt từ trung bình trở lên (tỷ lệ 89,36%).

Năm học 2016-2017, toàn ngành có 842 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,69%, giảm  0,19% so với năm học 2015-2016; trong đó cấp tiểu học có 28 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,05%; cấp THCS có 300 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,71%; cấp THPT có 514 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,22%.

Công tác phổ cập giáo dục đạt nhiều kết quả tích cực. Kết quả có 9/9 huyện, thị xã, thành phố duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS và xóa mù chữ theo Nghị định số 20/ND-CP và Thông tư số 07/TT-BGDĐT.

Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được đẩy mạnh. Đến nay toàn tỉnh có 71 trường mầm non đạt chuẩn, tỷ lệ 42,51%; cấp tiểu học có 117 trường đạt chuẩn quốc gia, tỉ lệ 75,48%; cấp THCS có 52 trường được công nhận đạt chuẩn,  tỷ lệ 40% và 09 trường THPT đạt chuẩn, tỷ lệ 29,03%; toàn tỉnh có 249/495 trường được công nhận đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 50,3%.

Số liệu sơ bộ đầu năm học 2017-2018, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 316 trường học, bằng năm học trước (tiểu học 155 trường, THCS 112 trường, PTCS 18 trường, THPT 27 trường, TH 03 trường; Phổ thông 01 trường). Số lớp học có 4475 lớp học, giảm 8 lớp so với năm học trước (tiểu học 2533 lớp, giảm 2 lớp; THCS 1297 lớp, giảm 4 lớp; THPT 645 lớp, giảm 2 lớp). Số học sinh phổ thông có 123521 em, tăng 1,24% (tiểu học 57475 em, tăng 2,03%; THCS 42674 em, tăng 0,36%; THPT 23372 em, tăng 0,93%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 8055 GV, giảm 1,67% (tiểu học 3779 GV, giảm 0,08%; THCS 2758 GV, giảm 4,17%; THPT 1518 GV, giảm 0,81%). Giáo dục mầm non có 167 trường mẫu giáo và mầm non; nhà trẻ có 5812 cháu, tăng 20,13% so với năm học trước; 625 cô nuôi dạy trẻ, tăng 22,79%; mẫu giáo có 1254 lớp, tăng 3,81%; 34513 học sinh, tăng 4,21%; 2317 giáo viên, tăng 2,66%.

Tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo đạt 94,1%. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học ở cấp tiểu học (6-10 tuổi) đạt 99,8%. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học ở cấp THCS (11-14 tuổi) đạt 96%.

4. Y tế

4.1. Tình hình khám, chữa bệnh

Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố và phát triển. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 12 Bệnh viện và Trung tâm Y tế  (tỉnh 3, huyện 9), 8 phòng khám đa khoa khu vực, 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn.

Toàn tỉnh có 1790 giường bệnh (không kể trạm xá), bằng năm trước. Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về chất lượng chuyên môn; toàn tỉnh có 2853 cán bộ ngành y, giảm 0,9% so với năm trước (có 580 bác sĩ trở lên, tăng 0,52%); có 402 cán bộ ngành dược, tăng 1,26% (có 65 dược sỹ cao cấp trở lên, bằng năm trước).

Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Năm 2017 ước có 1246952 lượt người khám bệnh, giảm 1,84% so với năm trước; ước có 132064 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, tăng 6,9%. Trong dịp Lễ Tết, nhất là Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017, Tỉnh đã chỉ đạo các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh trực 24/24 giờ, bảo đảm đủ nhân lực, thuốc, trang thiết bị, phương tiện để xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu tai nạn giao thông, ngộ độc, sinh đẻ trong những ngày Tết, không được từ chối hoặc để chậm trễ trong các trường hợp cấp cứu. Đối với các bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện trong dịp Tết, tổ chức chăm sóc, phục vụ chu đáo người bệnh còn nằm lại điều trị cả về vật chât và tinh thần; đặc biệt, tổ chức thăm hỏi, chúc Tết những người bệnh thuộc diện chính sách và người nghèo.

Đến nay, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 90,5%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 14%, giảm 0,5% so với năm trước. Ước tính đến cuối năm 2017, có 135/141 xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế, đạt 95,74%.

4.2. Tình hình dịch bệnh

Ngay từ đầu năm tỉnh đã tích cực chủ động triển khai phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm như: sốt xuất huyết, zika, sởi – rubella, sốt rét và một số bệnh có khả năng gây dịch nguy hiểm khác.

Tháng 12/2017, trên địa bàn tỉnh có 1401 trường hợp mắc bệnh cúm, 18 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, 45 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, 11 trường hợp mắc bệnh quai bị, 18 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, 163 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, 32 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut. Không có trường hợp nào tử vong.

Tính chung cả năm 2017, trên địa bàn tỉnh có 13867 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 12,91% so với năm trước; 368 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 5,4%; 716 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 14,86%; 386 trường hợp mắc bệnh quai bị, tăng 7,2%; 399 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, tăng 14,98%; 2154 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 10,88%; 247 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 14,83%. Từ đầu năm đến nay không có trường hợp nào tử vong. 

4.3. Tình hình nhiễm HIV/AIDS

Công tác phòng, chống HIV/AIDS được tiếp tục đẩy mạnh. Tỉnh tiếp tục chỉ đạo các cơ sở điều trị bằng methadone cho các đối tượng nghiện các chất dạng thuốc phiện, điều trị ARV cho bệnh nhân AIDS. Ngành y tế phối hợp với các sở, ban ngành, đoàn thể tổ chức giám sát hoạt động ở các cấp; đẩy mạnh công tác truyền thông bằng nhiều hình thức nhằm giúp công tác phòng, chống HIV/AIDS đạt hiệu quả cao hơn. Ngành y tế tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương quản lý tốt các đối tượng nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng để bảo đảm cho người dân tránh lây nhiễm.

Hưởng ứng tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2017  với chủ đề “Xét nghiệm HIV sớm – Hướng tới mục tiêu 90 – 90 – 90 vào năm 2020”, tỉnh tiếp tục tăng cường giới thiệu, quảng bá về lợi ích của xét nghiệm HIV, tiếp cận sớm với các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS. Kiện toàn hệ thống các phòng tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện trên địa bàn toàn tỉnh, các phòng xét nghiệm sàng lọc HIV tại các Trung tâm Y tế cấp huyện, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Đa khoa khu vực, các phòng khám, phòng xét nghiệm tư nhân có khả năng thực hiện xét nghiệm sàng lọc HIV. Khuyến khích người nhiễm HIV và gia đình hãy tham gia bảo hiểm y tế, tham gia các hoạt động phòng chống HIV/AIDS…

Trong tháng đã phát hiện thêm 04 trường hợp nhiễm HIV. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 216 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ); trong đó có 65 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 95 người.

4.4.Tình hình ngộ độc thực phẩm

Trong năm 2017, công tác thông tin truyền thông ATVSTP được triển khai đa dạng về hình thức và diễn ra sâu rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai với diện rộng bao gồm tất cả các lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, quảng cáo thực phẩm và các ngành hàng thực phẩm. Trong quá trình thanh, kiểm tra đã kết hợp làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức, các quy định của pháp luật về bảo đảm ATVSTP, nhằm nâng cao nhận thức và ý thức bảo đảm ATVSTP cho cộng đồng.

Trong tháng trên địa bàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm nào xảy ra. Tính chung cả năm 2017, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 05 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 84 người bị ngộ độc, có 02 người tử vong; 01 vụ ngộ độc rượu, 01 người bị ngộ độc.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Năm 2017, các hoạt động văn hóa, thể thao chủ yếu tập trung vào dịp Kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và đón Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017, Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; Kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và 45 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị; Kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sỹ…

Công tác tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao hết sức chu đáo với nhiều hình thức phong phú và đa dạng; các hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức trong năm 2017 như sau:

Kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và đón Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017 với các lễ hội: Hội hoa xuân; Chương trình nghệ thuật đón giao thừa mừng Đảng, mừng Xuân 2017; Chương trình thơ ca mừng đất nước vào Xuân; Hội Báo Xuân Đinh Dậu -2017; Lễ hội chợ đình Bích La (Triệu Phong); Hội cù, Làng vui chơi, làng ca hát (Gio Linh); Đua thuyền (Vĩnh Linh); Hội vật (Hải Lăng)…

Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn với các hoạt động chính: Lễ dâng hương, Lễ dâng hoa, Lễ mít tinh kỷ niệm…

Kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và 45 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị với các hoạt động: Lễ hội “Thống nhất non sông - 2017” với các hoạt động: Lễ Thượng cờ, Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Quảng Trị - Ký ức những dòng sông”, Giải đua thuyền truyền thống và các hoạt động viếng nghĩa trang liệt sĩ, thả hoa đăng trên sông Thạch Hãn, Hội chợ Thương mại và quảng bá du lịch 2017…

Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh Liệt sỹ; 45 năm sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành Cổ và thị xã Quảng Trị gồm các hoạt động chính: Liên hoan tuyên truyền lưu động toàn quốc và triển lãm tranh cổ động tấm lớn, Cuộc đua xe đạp “Về Trường Sơn - Cúp Báo Quân đội nhân dân 2017”, Hội nghị biểu dương người có công với Cách mạng tiêu biểu năm 2017, Cầu truyền hình “Dáng đứng Việt Nam”, Hội thảo Liên kết phát triển du lịch “Hoài niệm chiến trường xưa và đồng đội”, Lễ thông xe cầu Thành Cổ, Lễ thắp nến tri ân các Anh hùng, Liệt sỹ và chương trình sinh hoạt truyền thống “Hát bên các phần mộ liệt sỹ”, Lễ khánh thành công trình Tháp chuông Nghĩa trang Liệt sỹ thị xã Quảng Trị.

Tham gia Hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” tại Nghệ An đạt Huy chương vàng toàn đoàn (02HCV, 02 HCB); Tổ chức chương trình nghệ thuật “Anh Ba Duẩn”; Tổ chức triển lãm ảnh về chủ đề “ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”…

Tổ chức thành công Cuộc thi “Giải thưởng Mỹ thuật thiếu nhi Việt Nam” tỉnh Quảng Trị lần thứ IX - năm 2017, kết quả BTC đã trao thưởng cho 12 Giải A, 15 Giải B, 15 Giải C, 29 Giải Khuyến khích và 04 Giải Tập thể.

Tổ chức tốt công tác khánh tiết, đón, phục vụ du khách và nhân dân đến thăm quan, thăm viếng, dâng hương tại các di tích.

Thể thao quần chúng ngày càng phát triển sâu rộng, được các cấp, các ngành và đông đảo nhân dân quan tâm, hưởng ứng. Tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 30,9 %; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 25,7%; có 773 câu lạc bộ và điểm tập TDTT trên địa bàn tỉnh, có 02 liên đoàn và hiệp hội. Công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học được chú trọng, chất lượng phong trào được nâng lên rõ rệt: 100% các trường THCS, THPT tổ chức giảng dạy nội khoá, 98% số trường tổ chức giảng dạy ngoại khoá có nề nếp…

Tổ chức thành công nhiều giải thể thao như: giải Bóng chuyền - Cầu lông Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh năm 2017; Giải Bóng đá nam U11 Cúp QRTV – Bình Điền Quảng Trị lần thứ III, năm 2017; Giải Việt dã tỉnh Quảng Trị năm 2017 “Cùng Sacombank chạy vì sức khỏe cộng đồng”; Giải Bóng đá báo Quảng Trị năm 2017 – Cúp Trường Sơn…

Thể thao người khuyết tật của Quảng Trị tiếp tục giữ vững vị trí thứ 3 tại giải Thể thao Người khuyết tật toàn quốc năm 2017, với thành tích đạt được 60 huy chương (21HCV, 27HCB và 12HCĐ).

Thể thao thành tích cao được quan tâm, duy trì tập luyện thường xuyên các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm là: 92 VĐV tập luyện 8 môn thể thao gồm: Điền kinh, Cầu lông, Bơi lội, Karatedo, Rowning, Canoeing, Cử tạ và Vật (Trong đó: có 06 VĐV được gửi đi đào tạo tại các đội tuyển quốc gia, 31 VĐV tuyển Tỉnh, 20 VĐV tuyển Trẻ và 35 VĐV Năng khiếu). 

Năm 2017, các đội tuyển đã tham gia thi đấu 27 giải thể thao trong nước và quốc tế, đạt 66 huy chương các loại (14HCV, 17HCB và 35HCĐ). Đặc biệt, tham gia Giải vô địch và Vô địch trẻ Đông Nam Á môn Canoeing đạt 02 HCV, 02 HCB, 01 HCĐ; Giải vô địch Châu Á môn Rowing đạt 01 HCV, 01 HCĐ.

Phối hợp với Tổng cục Thể dục Thể thao, Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam tổ chức thành công Giải Bóng chuyền vô địch trẻ quốc gia năm 2017.

Chỉ đạo tổ chức tốt Đại hội TDTT cấp cơ sở tiến tới Đại hội TDTT tỉnh Quảng Trị lần thứ VII, năm 2017-2018; đến nay đã có 141/141 xã, phường, thị trấn tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp cơ sở, đạt 100%; 6/10 huyện, thị xã tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp huyện; Đại hội TDTT cấp tỉnh đã tổ chức thành công 7 môn thi đấu.

6. Tai nạn giao thông

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ tai nạn giao thông, làm chết 09 người, bị thương 09 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 37,5% (+03 vụ), số người chết tăng 125% (+05 người), số người bị thương giảm 43,8% (-07 người). Tất cả các vụ tai nạn giao thông trong tháng đều xảy ra trên đường bộ.

Tính chung năm 2017, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 207 vụ tai nạn giao thông, làm chết 120 người, bị thương 184 người; so với năm trước số vụ giảm 4,2% (-09 vụ), số người chết tăng 17,6% (+18 người), số người bị thương giảm 13,6% (-29 người). Trong năm 2017 có 206 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 119 người, bị thương 184 người và 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt, làm chết 01 người.

7. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

7.1. Tình hình cháy nổ

Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về PCCC với nhiều nội dung, hình thức phong phú phù hợp với từng đối tượng cụ thể; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PCCC & CNCH; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về PCCC của chính quyền các cấp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và tự kiểm tra về việc thực hiện các quy định về PCCC; duy trì công tác thường trực chiến đấu, sẵn sàng chữa cháy kịp thời, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác PCCC trong tình hình mới theo phương châm 4 tại chỗ.

Trong tháng trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 03 vụ cháy, giá trị thiệt hại ước tính 70 triệu đồng. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh có 53 vụ cháy xảy ra, tăng 29,27% (+12 vụ) so với cùng kỳ năm trước, làm 02 người chết và 07 người bị thương. Tổng giá trị thiệt hại 12527 triệu đồng.

7.2.Bảo vệ môi trường

Trong năm 2017, hưởng ứng ngày môi trường thế giới và chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn năm 2017 với chủ đề “Quản lý rác thải vì môi trường nông thôn bền vững”; tại các địa phương trên địa bàn tỉnh, đã tổ chức các hoạt động như: Lễ mít tinh hưởng ứng; ra quân thu gom rác thải, làm vệ sinh môi trường trên địa bàn dân cư, trồng cây xanh, khơi thông cống rãnh, kênh mương; tăng cường tuyên truyền, vận động người dân nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các sản phẩm thân thiện với môi trường; phát động và duy trì các phong trào bảo vệ môi trường tại cơ sở, cộng đồng dân cư…

Ngoài ra, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội.

Trong tháng đã phát hiện và xử lý 05 vụ vi phạm môi trường xảy ra, số tiền xử phạt 107 triệu đồng. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh phát hiện 10 vụ vi phạm môi trường, bằng 3 lần (+07 vụ) so với cùng kỳ năm trước; tổng số tiền xử phạt 186 triệu đồng.

Dự ước đến cuối năm 2017, tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 50%, tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước sạch đạt 90,5%, tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 91,28%, tỷ lệ chất thải rắn ở thành thị được thu gom đạt 98%.

8. Tình hình thiệt hại do thiên tai

Từ đầu năm đến nay thiên tai trên địa bàn tỉnh đã làm 03 người chết; 20 người bị thương; 06 thuyền bị chìm (trong đó: có 01 thuyền 460 CV); trên 5282 nhà bị thiệt hại như tốc mái, ngập nước; Về sản xuất: trên 3847,12 ha lúa, 5008,75 ha hoa màu và cây hàng năm, 5387,4 ha cây lâu năm (cao su, hồ tiêu, cà phê), 4462,2 ha rừng trồng, 725 ha cây ăn quả bị thiệt hại; Số gia súc bị chết 160 con; diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại trên 87,7 ha nuôi cá và trên 66 ha nuôi tôm... Các công trình đê điều, kênh mương bị sạt lỡ và hư hại trên 12000m kè, đê bao bị sạt lở và hư hỏng; trên 19600 m kênh mương nội đồng bị hư hỏng…cùng nhiều tài sản và công trình phúc lợi, văn hóa khác bị thiệt hại. Tổng giá trị thiệt hại ước tính hơn 1280,23 tỷ đồng.

          Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội năm 2017 tỉnh Quảng Trị./.

CỤC THỐNG KÊ QUẢNG TRỊ


Hoạt động trong ngành
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê Niên giám Thống kê Gửi báo cáo Thống kê
Mạng riêng của ngành dieu tra doanh nghiep 2024 Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013 Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị