Chỉ thị về việc tăng cường công tác Thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/09/2022    
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022    
Tỉnh Quảng Trị ra quân Tổng điều tra Kinh tế năm 2021 giai đoạn 2 - 03/07/2021    
Ngành Thống kê 75 năm xây dựng và trưởng thành - 06/05/2021    
Xác định đúng nguồn lực mới thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo kế hoạch - 06/05/2021    
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021    
TỔNG ĐIỀU TRA KINH TẾ NĂM 2021 - 10/03/2021    
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2016 - 08/04/2016    
Hội nghị điển hình tiên tiến Ngành Thống kê năm 2015 - 18/04/2015    
Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2015 của Tổng cục Thống kê - 04/02/2015    
Kế hoạch công tác tháng 01 năm 2015 - 27/01/2015    
Kế hoạch công tác tháng 12 năm 2014 - 27/01/2015    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2014 - 12/11/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2014 - 01/10/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2014 - 27/08/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2014 - 23/07/2014    
Đoàn Công tác của Tổng cục Thống kê tại Vương quốc Campuchia - 21/07/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014 - 23/06/2014    
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và Ban Kinh tế Trung ương - 05/06/2014    
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2014 - 23/05/2014    
Trực tuyến: 42
Hôm nay: 46
Lượt truy cập: 1,066,339
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 9 THÁNG NĂM 2017
Cập nhật bản tin: 9/29/2017
            

          Năm 2017 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi mới, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Kinh tế thế giới chuyển biến tích cực với đà tăng trưởng khả quan từ kinh tế Mỹ và các nước phát triển. Hoạt động thương mại và đầu tư toàn cầu phục hồi trở lại là những yếu tố tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Tuy nhiên, việc gia tăng chủ nghĩa bảo hộ cùng với những điều chỉnh chính sách của Mỹ và một số nước lớn đã ảnh hưởng đến cơ hội xuất khẩu của Việt Nam. Ở trong nước, bên cạnh những kết quả nổi bật về cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, những tín hiệu khả quan về xuất khẩu, thu hút khách quốc tế và đầu tư nước ngoài; những vấn đề tồn tại của nền kinh tế hiện nay như: chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp vẫn đang là thách thức tới mục tiêu tăng trưởng của cả nước; giá nông sản, thực phẩm, nhất là thịt lợn giảm mạnh tác động tiêu cực đến ngành chăn nuôi. Tại Quảng Trị, trong Chín tháng qua giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi xuống thấp, làm cho một bộ phận dân cư gặp khó khăn; tình hình thiên tai, dịch bệnh diển biến phức tạp; môi trường biển tuy đã phục hồi nhưng ảnh hưởng vẫn còn nặng nề; thu ngân sách, thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; môi trương kinh doanh tuy có cải thiện, nhưng số doanh nghiệp thành lập mới chưa nhiều; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên gặp nhiều rủi ro trong cuộc cạnh tranh hiện nay.

Thực hiện Kết luận số 38-KL/TU ngày 08/12/2016 của Tỉnh ủy về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2017; Kết luận số 49-KL/TU ngày 06/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong năm 2017; các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tại Nghị quyết số 21/2016/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 và Nghị quyết số 24/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 về Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, chi ngân sách địa phương năm 2017 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Quảng Trị khóa VII, kỳ họp thứ 3; dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy; sự giám sát chặt chẽ của HĐND tỉnh; sự nỗ lực và quyết tâm của các cấp, các ngành, các địa phương, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong toàn tỉnh; tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị 9 tháng năm 2017 đạt được những kết quả tích cực trên các ngành, lĩnh vực như sau:

  I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tài chính, ngân hàng

1.1. Tài chính

Bước vào năm 2017, trong điều kiện tình hình thu ngân sách địa phương gặp  nhiều khó khăn, tiến độ thu đạt thấp; thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất - kinh doanh; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đã đề ra; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan… Triển khai quyết liệt công tác thu ngân sách nhà nước, quyết tâm thu đạt và vượt dự toán. Tổ chức điều hành, quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, tiết kiệm, đúng quy định, chống lãng phí. Tỉnh đã tăng cường công tác quản lý chi ngân sách nhà nước, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả; hạn chế tối đa việc đề xuất bổ sung kinh phí ngoài dự toán, không tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách khi chưa có nguồn đảm bảo; Quản lý chi chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, dàn trải, chủ động rà soát, sắp  xếp để cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thật sự cần thiết, cấp bách; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, đúng quy định việc mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công…

Tích cực tìm các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, nuôi dưỡng và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Đẩy mạnh công tác thu, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định; hạn chế tình trạng nợ đọng thuế.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/9/2017 đạt 1521,85 tỷ đồng, bằng 63,52% dự toán năm 2017 và tăng 17,18% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 1332,69 tỷ đồng, bằng 62,69% dự toán và tăng 24,07%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 189,16 tỷ đồng, bằng 70,06% dự toán và giảm 15,79%. Trong thu nội địa, các khoản thu lớn như: thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 150,35 tỷ đồng, bằng 59,19% dự toán và tăng 16,98%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 378,41 tỷ đồng, bằng 44,94% dự toán và tăng 12,68%; lệ phí trước bạ 59,75 tỷ đồng, bằng 47,8% dự toán và giảm 23,64%; thuế bảo vệ môi trường 195,08 tỷ đồng, bằng 82,66% dự toán và tăng 118,1%; thu tiền sử dụng đất 336,56 tỷ đồng, bằng 89,75% dự toán và tăng 27,29%...

Tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/9/2017 thực hiện 3758,39 tỷ đồng, bằng 54,54% dự toán năm 2017 và tăng 9,13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 933,65 tỷ đồng, bằng 128,53% dự toán và tăng 3,85%; chi thường xuyên 2786,76 tỷ đồng, bằng 63,73% dự toán và tăng 9,66%. Trong chi thường xuyên, các khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1202,10 tỷ đồng, bằng 61,71% dự toán và tăng 11,69%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 146,44 tỷ đồng, bằng 33,44% dự toán và giảm 25,96%; chi quản lý hành chính 724,32 tỷ đồng, bằng 74,63% dự toán và tăng 4,53%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 240,02 tỷ đồng, bằng 114,22% dự toán và tăng 29,59%; chi sự nghiệp kinh tế 228,39 tỷ đồng, bằng 53,4% dự toán và tăng 26,25%...

1.2. Ngân hàng

Triển khai thực hiện nghiêm túc các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động Ngân hàng của Chính phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện nhiệm vụ Ngân hàng năm 2017. Theo đó việc thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt và hiệu quả phù hợp với diển biến tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, hổ trợ tăng trưởng và đảm bảo thanh khoản của các tổ chức tín dụng.

Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu các tổ chức tín dụng, Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”.

Giám sát việc thực hiện lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng. Chỉ đạo các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện các giải pháp tháo gở khó khăn cho khách hàng vay vốn do thiệt hại sau cơn bảo số 2 và số 4.

Lãi suất huy động vốn và cho vay trên địa bàn Quảng Trị 9 tháng năm 2017 cơ bản ổn định. Các tổ chức tín dụng chấp hành nghiêm túc lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam và lãi suất cho vay theo đúng quy định của Ngân hàng Trung ương.

Huy động vốn trên địa bàn đến 31/8/2017 đạt 16583 tỷ đồng, tăng 4,99% (+788 tỷ đồng) so với cuối năm 2016 và tăng 19,2% (+2670 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu tiền gửi: tiền gửi tiết kiệm 13288 tỷ đồng, chiếm 80,13%,  tăng 12,49% (+1475 tỷ đồng) so với cuối năm 2016; tiền gửi thanh toán 2096 tỷ đồng, chiếm 12,64%, giảm 14,55% (-357 tỷ đồng); huy động khác 1199 tỷ đồng, chiếm 7,23%, giảm 21,6% (-330 tỷ đồng). Ước tính đến 30/9/2017 huy động vốn đạt 16700 tỷ đồng, tăng 5,73% so với cuối năm 2016.

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 31/8/2017 đạt 23893 tỷ đồng, tăng 10,15% (+2202 tỷ đồng) so với cuối năm 2016 và tăng 23,08% (+4480 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu dư nợ cho vay: dư nợ cho vay ngắn hạn 9336 tỷ đồng, chiếm 39,07%, tăng 8,32% (+717 tỷ đồng) so với cuối năm 2016; dư nợ cho vay trung và dài hạn 14557 tỷ đồng, chiếm 60,93%, tăng 11,36% (+1485 tỷ đồng). Ước tính đến 30/9/2017 dư nợ đạt 24000 tỷ đồng, tăng 10,64% so với cuối năm 2016.

Chất lượng tín dụng: nợ xấu đến 31/8/2017 là 168 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng dư nợ.

2. Đầu tư và xây dựng

Chín tháng năm 2017, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng các Ngân hàng thương mại đã nới lỏng điều kiện tín dụng, lãi suất cho vay tương đối ổn định; tuy nhiên hoạt động đầu tư và xây dựng trên địa bàn tỉnh đang gặp khó khăn do Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ; ngân sách nhà nước địa phương quá eo hẹp, đang nhận trợ cấp từ ngân sách Trung ương; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ, năng lực hạn chế; nguồn lực trong dân có hạn; thu hút vốn đầu tư nước ngoài gặp khó khăn; tình hình giải ngân vốn chậm…nên vốn đầu tư và giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2017 tăng trưởng chậm. Hoạt động đầu tư và xây dựng chủ yếu tập trung vào xây dựng nhà ở và công trình giao thông…

2.1. Đầu tư  

Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 9 tháng năm 2017 (giá hiện hành) ước tính đạt 8501,6 tỷ đồng, tăng 8,54% so với cùng kỳ năm trước; Trong đó: Vốn nhà nước ước đạt 2224,8 tỷ đồng, chiếm 26,17% và tăng 3,42%; vốn ngoài nhà nước ước đạt 6212,2 tỷ đồng, chiếm 73,07% và tăng 10,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 64,6 tỷ đồng, chiếm 0,76% và tăng 8,75%.

Trong vốn đầu tư phát triển trên địa bàn, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt 6153,9 tỷ đồng, tăng 8,63% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản ước đạt 1288 tỷ đồng, tăng 8,03%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ ước đạt 533,4 tỷ đồng, tăng 9,08%; vốn lưu động bổ sung ước đạt 365,6 tỷ đồng, tăng 8,46%; vốn đầu tư phát triển khác ước đạt 160,7 tỷ đồng, tăng 7,89%.

Trong tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng năm 2017 ước đạt 1237,9 tỷ đồng, bằng 80,14% kế hoạch năm 2017 và giảm 3,58% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách tỉnh đạt 1058 tỷ đồng, bằng 80,61% kế hoạch và giảm 4,6%; vốn ngân sách huyện đạt 139,1 tỷ đồng, bằng 77,42% kế hoạch và tăng 2,03%; vốn ngân sách xã đạt 40,8 tỷ đồng, bằng 77,72% kế hoạch và tăng 5,86%. Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng  năm 2017 giảm so với cùng kỳ năm trước là do kế hoạch vốn giao năm 2017 giảm so với năm 2016.

Vốn FDI: từ đầu năm đến nay chưa có dự án mới được cấp phép. Hiện nay số dự án đang hoạt động trên địa bàn là 11 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư là 39,23 triệu USD. Dự ước vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 tháng đạt 2,86 triệu USD.

Vốn ODA: Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 29 dự án ODA đang triển khai thực hiện với tổng vốn là 5535 tỷ đồng. Trong năm 2017, có 16 dự án được bố trí vốn thực hiện với tổng vốn là 952,7 tỷ đồng. Dự ước vốn ODA thực hiện trong 9 tháng năm 2017 là 593,77 tỷ đồng, đạt 80,91% kế hoạch năm 2017.

Vốn NGO: Từ đầu năm đến nay đã có 20 dự án NGO được phê duyệt với tổng vốn cam kết 6,47 triệu USD ( kế hoạch thực hiện trong năm 2017 là 2,17 triệu USD). Dự ước thực hiện trong 9 tháng năm 2017 là 1,32 triệu USD.

Về tiến độ giải ngân vốn: đến 31/8/2017, Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện 1317,74 tỷ đồng, đạt 44,47% kế hoạch năm 2017; trong đó: nguồn vốn địa phương quản lý thực hiện 1030,57 tỷ đồng, đạt 46,99% kế hoạch.

2.2. Xây dựng

Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2017 (giá hiện hành) ước tính đạt 6464 tỷ đồng, chủ yếu do các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện. Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở ước đạt 3050,7 tỷ đồng, chiếm 47,19%; công trình nhà không để ở ước đạt 666,1 tỷ đồng, chiếm 10,31%; công trình kỹ thuật dân dụng ước đạt 2626,9 tỷ đồng, chiếm 40,64%; hoạt động xây dựng chuyên dụng ước đạt 120,3 tỷ đồng, chiếm 1,86%.

Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng năm 2017 (giá so sánh 2010) ước tính đạt 4753,1 tỷ đồng, tăng 7,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng giá trị sản xuất xây dựng, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở ước đạt 2242,9 tỷ đồng, tăng 8,85%; giá trị sản xuất xây dựng nhà không để ở ước đạt 487,7 tỷ đồng, tăng 1,21%; giá trị sản xuất xây dựng công trình kỷ thuật dân dụng ước đạt 1946,1 tỷ đồng, tăng 7,68%; giá trị sản xuất xây dựng công trình chuyên dụng ước đạt 76,4 tỷ đồng, tăng 1,25%.

3. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

3.1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

a1. Cây hàng năm

Sản xuất vụ Đông Xuân 2016-2017, đầu vụ thời tiết mưa kéo dài làm một số diện tích bị ngập úng đã ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy lúa và một số cây trồng khác; tuy nhiên, trong vụ thời tiết tương đối thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng; cuối vụ tình hình sâu bệnh gia tăng, đặc biệt rầy bùng phát gây hại lúa, nhưng được sự chỉ đạo tích cực của ngành Nông nghiệp và các địa phương, đã kịp thời khống chế được dịch bệnh nên không ảnh hưởng nhiều đến năng suất lúa. Sản xuất vụ Hè Thu năm 2017 gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với cây lúa; trong cả vụ có 5 đợt nắng nóng xảy ra gay gắt, thời kỳ lúa trổ gặp nhiệt độ cao làm tăng tỷ lệ lem lép hạt trên bông lúa; hơn nửa thời tiết cũng là điều kiện thuân lợi cho sâu bệnh phát sinh và gây hại trên diện rộng, đặc biệt rầy lưng trắng xuất hiện sớm hơn mọi năm, bệnh lùn sọc đen gây hại trên diện tích 1378,6 ha…Ngoài ra, giữa vụ bảo số 4 làm ngập gần 4000 ha lúa đang trong giai đoạn làm đồng, có 1500 ha lúa bị tử đồng đã làm cho năng suất lúa vụ Hè Thu đạt thấp.

Kết quả sản xuất cây hàng năm 9 tháng năm 2017.

Về diện tích: Tính đến 15/9/2017 toàn tỉnh đã gieo cấy được 50302,3 ha lúa,   tăng 1,1% (+546,6 ha) so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Vụ Đông Xuân 25752,6 ha, tăng 0,22% (+57 ha) so với vụ Đông Xuân năm 2015-2016; vụ Hè Thu 22503,4 ha, tăng 1,56% (+345,5 ha) so với vụ Hè Thu năm 2016; vụ Mùa 2046,3 ha, tăng 7,58% (+144,1 ha) so với vụ Mùa năm 2016; ngô gieo trồng 4249,1 ha, tăng 4% (+163,5 ha); khoai lang 2492,1 ha, tăng 2,17% (+53 ha); cây sắn 12295 ha, giảm 5,42% (-704,3 ha); lạc 3846,2 ha, giảm 3,24% (-128,6 ha); rau các loại 5285,4 ha, tăng 3,67% (+187 ha); đậu các loại 1761,5 ha, tăng 1,11% (+19,3 ha)…

Diện tích lúa tăng do năm nay đủ nguồn nước tưới nên một số diện tích trồng màu chuyển sang trồng lúa; diện tích sắn và lạc giảm do giá đầu vào tăng nhưng giá bán sản phẩm giảm nên bà con chuyển sang gieo trồng các loại cây khác.

Về năng suất: năng suất lúa vụ Đông Xuân 2016-2017 đạt 56,8 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha so với vụ Đông Xuân năm 2015-2016; năng suất lúa vụ Hè Thu năm 2017 ước đạt 42,2 tạ/ha, giảm 9,7 tạ/ha so với vụ Hè Thu năm 2016; cây ngô năng suất ước đạt 33 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha; cây khoai lang năng suất ước đạt 76,5 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; cây sắn năng suất ước đạt 168,1 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; cây lạc năng suất ước đạt 19,6 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; rau các loại năng suất ước đạt 98,9 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; đậu các loại năng suất ước đạt 10,3 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha…Riêng lúa vụ Mùa hiện nay đang phát triển tốt.

Năng suất lúa vụ Hè Thu giảm mạnh do ảnh hưởng của đợt mưa lớn đầu vụ (ngày 07/6/2017) làm ngập úng và ảnh hưởng gần 1500 ha; bảo số 4 (ngày 25/7/2017) làm ngập và ảnh hưởng 4000 ha lúa làm đồng, trổ bông; hơn nữa, thời  tiết nắng nóng và sâu bệnh phát sinh, gây hại trên diện rộng đã ảnh hưởng đến năng suất.

Về sản lượng: Sản lượng lúa vụ Đông Xuân 2016-2017 đạt 146158,1 tấn, giảm 0,1% (-142,9 tấn) so với vụ Đông Xuân năm 2015-2016; năng suất lúa vụ Hè Thu năm 2017 ước đạt 94984,7 tấn, giảm 17,33 tấn (-19906,5 tấn) so với vụ Hè Thu năm 2016; sản lượng ngô ước đạt 14032,2 tấn, tăng 9,01% (+1159,9 tấn); sản lượng khoai lang ước đạt 19065,8 tấn, tăng 5,28% (+956,4 tấn); sản lượng sắn ước đạt 206671,7 tấn, giảm 5,36% (-11716,5 tấn); sản lượng lạc ước đạt 7524 tấn, giảm 1,17% (-89,1 tấn); sản lượng rau các loại ước đạt 52266,7 tấn, tăng 6,13% (+3020,1 tấn); sản lượng đậu các loại ước đạt 1817 tấn, tăng 2,83% (+50 tấn)…

Tình hình sâu bệnh hại lúa:

Công tác phòng trừ sâu bệnh ở một số địa phương chưa quyết liệt, thời vụ muộn và dàn trãi là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều lứa rầy gối nhau, khó phòng trừ, là môi giới gây ra bệnh lùn sọc đen trên diện rộng; công tác chỉ đạo phòng trừ rầy chưa kịp thời, chưa triệt để.

  Sự chủ quan của chính quyền địa phương và người nông dân về dịch bệnh, dẫn đến sự thiếu chủ động và quyết liệt ngay từ đầu trong công tác phòng trừ sâu bệnh.

 Lực lượng cán bộ chuyên ngành BVTV tại các huyện quá ít (2 – 3 cán bộ) trong khi đó diện tích cây trồng rất lớn và đa dạng, trang thiết bị phục vụ công tác  dự báo còn thiếu. Một số đối tượng sâu bệnh như: Lùn sọc đen là bệnh do virus nên chỉ phát hiện thông qua các xét nghiệm hoặc phân tích PCR, khó phát hiện triệu chứng biểu hiện bên ngoài do đó công tác điều tra, phát hiện, thống kê gặp rất nhiều khó khăn….

Trong vụ Hè Thu, có thời điểm trên cây lúa, diện tích nhiễm rầy gần 4000 ha, trong đó nhiễm nặng 454 ha. Mật độ rầy phổ biến 1500 con/m2, nơi cao 2000-5000 con/m2, cục bộ có nơi 7000-10000 con/m2. Bệnh khô đầu lá sinh lý diện tích nhiễm 1330 ha, trong đó nhiễm nặng 203 ha…

a2. Cây lâu năm

Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có 34386,2 ha, tăng 1,22% (+414,4 ha) so với cùng kỳ năm trước. Một số cây lâu năm chủ yếu của tỉnh như:

Cây cà phê: diện tích hiện có 5301 ha, tăng 1,5% (+76 ha) so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng cà phê thu hoạch 9 tháng 2017 ước đạt 450 tấn, giảm 0,9% (-4 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Cây cà phê diện tích tập trung tại huyện miền núi Hướng Hóa, cây cà phê mít kém hiệu quả nên diện tích giảm nhiều, còn lại chủ yếu là cà phê chè (Catimo). Giá cà phê năm nay tăng khá nên người trồng cà phê phấn khởi đầu tư thâm canh.

Cây cao su: diện tích hiện có 19502 ha, tăng 0,1% (+25 ha) so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2017 ước đạt 12862 tấn, tăng 5% (+612 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Giá mủ cao su năm nay có tăng so với năm trước, sản lượng mũ cao su tăng do thời tiết thuận lợi cho khai thác.

Cây hồ tiêu: diện tích hiện có 2455 ha, tăng 2,7% (+65 ha) so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2017 ước đạt 2279,7 tấn, tăng 18,9% (+362 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay giá bán hạt tiêu đang có xu hướng giảm, năm nay cây hồ tiêu được mùa cho năng suất khá nên sản lượng tăng.

Cây chuối: diện tích hiện có 4602 ha, giảm 1,88% (-88 ha) so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2017 ước đạt 65243 tấn, tăng 4,9% (+3033 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Cây chuối tập trung chủ yếu ở huyện miền núi Hướng hóa, chiếm 80% diện tích chuối toàn tỉnh, phù hợp với điều kiện khí hậu vùng này, cho thu nhập ổn định quanh năm nên bà con tập trung đầu tư.

b. Chăn nuôi

Ước tính đến 30/9/2017, đàn trâu có 26900 con, tăng 0,58% so với cùng kỳ năm 2016; đàn bò có 67900 con, tăng 0,58%; đàn lợn thịt có 205000 con, giảm 3,01%; đàn gia cầm có 2670 nghìn con, tăng 2,5%; trong đó: đàn gà 2050 nghìn con, tăng 2,6%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng năm 2017 ước tính đạt 31228 tấn, giảm 0,52% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt lợn đạt 23472 tấn, giảm 3,07%.

Số lượng đàn trâu, bò tăng do người chăn nuôi bỏ dần hình thức nuôi nhỏ lẻ, sang nuôi với quy mô lớn, nuôi vỗ béo cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong những tháng đầu năm 2017 chăn nuôi lợn gặp khó khăn do giá bán thịt lợn hơi giảm mạnh; với sự vào cuộc của chính quyền các địa phương và giá bán thịt lợn hơi ngày càng phục hồi nên tình hình chăn nuôi lợn có cải thiện, đàn lợn vẫn duy trì được. Đàn gia cầm giá bán ổn định, dịch bệnh ít xảy ra nên tổng đàn tăng khá…

* Tình hình dịch bệnh: Trong 9 tháng năm 2017, một số dịch bệnh đã xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm. Dịch cúm gia cầm H5N6 xảy ra 02 đợt tại 02 xã Triệu Ái (huyện Triệu Phong) và xã Gio Mai (huyện Gio Linh); tổng số gia cầm  chết, tiêu hủy 1287 con. Dịch cúm gia cầm H5N1 xảy ra tại xã Triệu Độ (huyện Triệu Phong); tiêu hủy 1500 con vịt…

 Dịch LMLM xảy ra tại xã Gio Sơn (huyện Gio Linh); tổng số gia súc mắc bệnh 47 con bò, 20 con lợn, tiêu hủy 11 con lợn…

3.2. Lâm  nghiệp

Chín tháng năm 2017, số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1560 nghìn cây, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng trồng được chăm sóc ước đạt 21673 ha, giảm 1,9%...

Tính đến nay, tỉnh Quảng Trị có trên 21000 ha rừng trồng được cấp chứng chỉ FSC. Mặc dù diện tích rừng được cấp chứng chỉ chưa nhiều nhưng đã có những thay đổi trong tư duy sản xuất đối với các chủ rừng, góp phần tích cực cho công nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ ra thị trường quốc tế và đáp ứng mục tiêu tái cơ cấu ngành lâm nghiệp trong giai đoạn 2016-2020. Bên cạnh đó được sự hỗ trợ từ dự án JICA2 – Dự án phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ, những năm gần đây công tác bảo vệ phát triển rừng được đẩy mạnh, diện tích rừng được bảo vệ, được khoanh nuôi tái sinh ngày càng nhiều. Phát triển rừng trồng thật sự tạo ra sức sống mới. Các vườn ươm cây giống trên địa bàn tỉnh đã chuẩn bị cây giống các loại gồm keo tai tượng, keo dâm hom, keo lưỡi liềm và các cây bản địa khác chuẩn bị cho kỳ trồng rừng đại trà vào quí IV.

Tháng 9/2017, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 98938 m3, tăng 2,31% so với tháng cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 24250 ste, giảm 4,65%. Tính chung 9 tháng năm 2017, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 405600 m3, tăng 2,37%; sản lượng củi khai thác ước đạt 158562 ste, giảm 7,44%. Nhu cầu gỗ nguyên liệu sản xuất dăm gỗ lớn nên sản lượng gỗ khai thác tăng; sản lượng củi khai thác giảm do nhu cầu củi làm chất đốt ngày càng giảm.

Thiệt hại rừng: Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về công tác phòng chống cháy rừng, trước những diễn biến của tình hình thời tiết cực đoan, nhất là trong điều kiện khô hạn, nắng nóng và nhiệt độ tăng cao, nguy cơ cháy rừng có thể xảy ra, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp, chỉ đạo các chủ rừng, các xã, các hộ gia đình nghiêm chỉnh chấp hành nhằm hạn chế thấp nhất cháy rừng có thể xảy ra. Trong 9 tháng năm 2017, theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm toàn tỉnh không có vụ cháy rừng nào xảy ra.

Về kiểm soát vi phạm lâm luật: Tính đến hết tháng 8 năm 2017, đã phát hiện và bắt giữ 244 vụ vi phạm hành chính; xử lý vi phạm hành chính 237 vụ; lâm sản tịch thu 414,6 m3 gỗ các loại và 235 kg động vật rừng và sản phẩm động vật rừng.

3.3. Thủy sản

Chín tháng năm 2017, thời tiết thuận lợi cho hoạt động đánh bắt thủy sản; môi trường biển đã phục hồi, bà con ngư dân đã yên tâm ra khơi đánh bắt hải sản; riêng hoạt động nuôi tôm nước lợ đang gặp khó khăn, một số diện tích nuôi tôm xuất hiện dịch bệnh.

Đến nay, số tàu thuyền khai thác có động cơ toàn tỉnh có 1929 chiếc, tăng 7,62% (+133 chiếc) với tổng công suất 101810 CV, tăng 32,99% (+25100 CV) so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 191 chiếc từ 90 CV trở lên, tăng 6,32% (+11 chiếc). Theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP đến nay đã có 23/32 chủ tàu được hợp đồng đóng mới (16 tàu vỏ thép, 07 tàu vỏ gỗ), đã hoàn thiện đưa vào hoạt động 11 tàu vỏ thép và 06 tàu vỏ gỗ; nâng cấp 81/113 tàu.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 246 lồng nuôi thủy sản, tăng 5,79% (+13 lồng) so với cùng kỳ năm 2016.

Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2017 ước đạt 3053,1 ha, tăng 0,97% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: nuôi cá 2108,6 ha, gaimr 0,3%; nuôi tôm 939,5 ha, tăng 3,79%; nuôi thủy sản khác 5 ha, tăng 45,35%. Nuôi cá tại Quảng Trị chủ yếu là nuôi nhỏ lẻ tại các hộ dân quy mô vẫn ổn định; diện tích nuôi tôm có tăng do năm trước ảnh hưởng của sự cố ô nhiễm môi trường biển.

Dịch bệnh nuôi trồng thủy sản: từ đầu năm đến nay dịch bệnh trên tôm nuôi đã xảy ra ở 17 xã, thị trấn của 4 huyện ven biển (Triệu Phong, Hải Lăng, Vĩnh Linh, Gio Linh) với diện tích bị bệnh là 306,69 ha.

Tổng sản lượng thủy sản tháng 9/2017 ước đạt 4284,5 tấn, bằng 1,95 lần so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2712 tấn, bằng 2,38 lần; tôm 984,5 tấn, tăng 14,52%; thủy sản khác 588 tấn, bằng 3 lần. Tính chung 9 tháng năm 2017 ước đạt 23379 tấn, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 17697 tấn, tăng 29,72%; tôm 2955 tấn, giảm 8,46%; thủy sản khác 2727 tấn, tăng 53,72%. Cụ thể:  

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 9/2017 ước đạt 1430 tấn, tăng 9,92% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 450 tấn, bằng tháng cùng kỳ năm trước; tôm 980 tấn, tăng 15,16%. Tính chung 9 tháng năm 2017, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5328 tấn, giảm 7,64% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2619 tấn, giảm 1,39%; tôm 2702 tấn, giảm 13,01%. Sản lượng cá nuôi nhìn chung ổn định, riêng sản lượng tôm nuôi trong 9 tháng giảm mạnh do năm trước ảnh hưởng dịch bệnh nên bà con không thả nuôi vụ 2 năm 2016 nên những tháng đầu năm 2017 sản lượng thu hoạch thấp.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 9/2017 ước đạt 2854,5 tấn, bằng 3,2 lần so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2262 tấn, bằng 3,29 lần; tôm 4,5 tấn, giảm 48,28%; thủy sản khác 588 tấn, bằng 3 lần. Tính chung 9 tháng năm 2017, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 18051 tấn, tăng 40,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 15078 tấn, tăng 37,25%; tôm 253 tấn, bằng 2,07 lần; thủy sản khác 2720 tấn, tăng 53,93%. Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng năm 2017 tăng cao so với cùng kỳ năm trước do năm trước ảnh hưởng sự cố ô nhiễm môi trường biển, đến nay sản lượng hải sản đánh bắt đã phục hồi trở lại.

4. Sản xuất công nghiệp

Chín tháng năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Một số doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm đảm bảo, tăng khả năng cạnh tranh nên sản xuất tăng khá: Công ty CP Thương mại Quảng Trị (sản xuất tinh bột sắn, sản xuất dăm gỗ), Công ty TNHH cao su camel Việt Nam (ngoài sản xuất săm lốp xe máy, xe đạp còn đầu tư sản xuất thêm lốp ô tô), Công ty CP phân bón Bình Điền (sản xuất phân bón NPK). Một số dự án hoàn thành đi vào hoạt động làm cho sản lượng tăng: Dây chuyền 2 của Nhà máy gỗ MDF_ VRG Quảng Trị, Nhà máy Bia Hà Nội chất lượng ổn định, Công ty TNHH Tuấn Ngọc SURMI sản xuất chả cá, Công ty TNHH dệt may VINATEX Quốc tế Tom, Nhà máy điện gió Hướng Linh. Các nhà máy thủy điện do lòng hồ đủ nước nên hoạt động liên tục, một số doanh nghiệp sản xuất dăm gỗ do nhu cầu khách hàng tăng nên sản lượng tăng…

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2017 ước tính tăng 5,87% so với tháng trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 9,81%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,77%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,15%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,27%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2017 ước tính tăng 15,79% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 7,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,61%; sản xuất và phân phối điện tăng 30,96%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 7,4%.

Tính chung 9 tháng năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 15,31% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2016 tăng 9,3%); trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,96%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,28%; sản xuất và phân phối điện tăng 19,61%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,69%.

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2017 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 15,47%; sản xuất đồ uống tăng 21,97%; sản xuất trang phục tăng 18,76%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 27,99%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 15,43%; sản xuất và phân phối điện tăng 19,61%. Các ngành có chỉ số tăng thấp hơn chỉ số chung là: khai khoáng khác tăng 7,65%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,3%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 9,55%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 11,01%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 6,57%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 6,56%; khai thác xử lý và cung cấp nước tăng 3,93%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 2,62%. Các ngành có chỉ số sản xuất giảm: khai thác quặng kim loại giảm 4,15%; dệt giảm 30,72%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 32,04%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 13,38%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 4,38%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 0,66%.

Một số sản phẩm chủ yếu trong 9 tháng năm 2017 so với cùng kỳ năm trước tăng cao là: bia lon tăng 31,42%; bộ comple, quần áo tăng 29,45%; dăm gỗ tăng 19,89%; ván ép từ gỗ tăng 74,24%; phân hóa học tăng 46,47%; lốp dùng cho xe máy, xe đạp tăng 21,99%; điện sản xuất tăng 51,01%. Một số sản phẩm tăng thấp là: đá xây dựng tăng 6,17%; tinh bột sắn tăng 6,28%; nước hoa quả, tăng lực tăng 13,8%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 0,66%; săm dùng cho xe máy, xe đạp tăng 12,57%; xi măng tăng 3,73%; điện thương phẩm tăng 5,49%; nước máy tăng 3,86%. Một số sản phẩm giảm là: quặng inmenit và tinh quặng inmenit giảm 8,09%; quặng titan và tinh quặng titan giảm 31,60%; quặng zircon và tinh quặng zircon giảm 16,67%; dầu nhựa thông giảm 9,68%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 1,33%; tấm lợp proximăng giảm 5,26%...

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Từ đầu năm đến 16/9/2017, có 277 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1704,6 tỷ đồng, tăng 33,17% về số doanh nghiệp và tăng 34,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 6,15 tỷ đồng, tăng 2,16%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động là 97 doanh nghiệp, tăng 61,66% so với cùng kỳ năm 2016; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 36 doanh nghiệp, tăng 28,57%. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ trong các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ; gặp khó khăn về vốn kinh doanh…

6. Hoạt động thương mại, dịch vụ

6.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Thị trường bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2017 tại Quảng Trị khá sôi động. Trong điều kiện thời tiết thuận lợi, giá cả thị trường ổn định, môi trường biển đã phục hồi nên sản lượng hải sản khai thác tăng khá, hoạt động kinh doanh dịch vụ tại các điểm du lịch biển nhộn nhịp hơn; Hơn nữa, 9 tháng năm 2017 tại Quảng Trị tổ chức kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, 45 năm ngày giải phóng Quảng Trị, 70 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ… nên lượng khách đến Quảng Trị tăng; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố kìm hảm tốc độ tăng Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng như: giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi giảm mạnh; sức mua của một bộ phận dân cư giảm sút…

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2017  ước đạt 1945,1 tỷ đồng, tăng 6,23% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1630,4 tỷ đồng, tăng 4,99% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú và ăn uống đạt 226,3 tỷ đồng, tăng 14,16%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,6 tỷ đồng, tăng 4,78%; doanh thu dịch vụ khác đạt 85,8 tỷ đồng, tăng 10,91%.

Tính chung 9 tháng năm 2017, Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 18070,9 tỷ đồng, tăng 11,89% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,48%). Xét theo ngành hoạt động:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 15366,6 tỷ đồng, chiếm 85,04% tổng mức và tăng 11,53% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn có tổng mức bán lẻ tăng khá so với cùng kỳ năm trước: lương thực, thực phẩm tăng 9,98%; hàng may mặc tăng 12,94%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 15,67%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 16,83%; phương tiện đi lại tăng 9,72%; xăng dầu các loại tăng 10,86%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 1923,1 tỷ đồng, chiếm 10,64% tổng mức và tăng 15,25% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 24,6 tỷ đồng, chiếm 0,14% tổng mức và tăng 9,59% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 756,6 tỷ đồng, chiếm 4,18% tổng mức và tăng 11,23% so với cùng kỳ năm trước.

6.2. Hoạt động vận tải

Hoạt động kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2017 diển biến bình thường; kinh tế tiếp tục phát triển nên nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của dân cư tăng; số lượng và chất lượng phương tiện vận tải ngày càng tăng; giá xăng dầu có tăng nhưng không nhiều nên giá cước vận tải ít biến động; vận tải hành khách có thêm tuyến xe buýt Cam Lộ - Cửa Việt - Cửa Tùng được đưa vào khai thác…

Doanh thu vận tải tháng 9/2017 ước tính đạt 117,5 tỷ đồng, tăng 5,65% so với tháng trước, trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 38,5 tỷ đồng, tăng 4,3%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 77,3 tỷ đồng, tăng 6,39%; doanh thu kho bãi và dịch vụ hổ trợ vận tải ước đạt 1,7 tỷ đồng, tăng 3,78%. Tính chung 9 tháng năm 2017, doanh thu vận tải ước đạt 924,5 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 336,2 tỷ đồng, tăng 4,84%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 573,4 tỷ đồng, tăng 12,83%; doanh thu kho bãi và dịch vụ hổ trợ vận tải ước đạt 14,9 tỷ đồng, tăng 1,43%. Trong tổng doanh thu vận tải 9 tháng năm 2017: khu vực nhà nước ước đạt 7,5 tỷ đồng, tăng 113,1%; khu vực ngoài nhà nước ước đạt 917 tỷ đồng, tăng 9,17%.

Vận tải hành khách: khối lượng hành khách vận chuyển tháng 9/2017 ước  đạt 513,4 nghìn HK, tăng 3,98% so với tháng trước, đều do thành phần kinh tế ngoài nhà nước và vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 49,9 triệu HK.km, tăng 2,08%. Tính chung 9 tháng năm 2017, khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 4964,7 nghìn HK, tăng 3,48% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 459,4 triệu HK.km, tăng 4,15%.

Vận tải hàng hóa: khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 9/2017 ước đạt 813,6 nghìn tấn, tăng 4,31% so với tháng trước; tất cả đều do thành phần kinh tế ngoài nhà nước và chủ yếu vận tải đường bộ thực hiện; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước đạt 58,16 triệu tấn.km, tăng 6,35%. Tính chung 9 tháng năm 2017, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước đạt 6510,4 nghìn tấn, tăng 4,65% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước đạt 421,14 triệu tấn.km, tăng 8,14%.

6.3. Khách du lịch

Tại Quảng Trị, chủ yếu phát triển loại hình du lịch truyền thống như về thăm chiến trường xưa, thăm các di tích lịch sử, du lịch tâm linh…Chín tháng năm 2017, trên địa bàn tỉnh đã Tổ chức Lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, 45 năm ngày giải phóng Quảng Trị, 70 năm ngày Thương binh – Liệt sỹ …với nhiều hoạt động phong phú nên lượng khách đến Quảng Trị tăng.

Số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ tháng 9/2017 ước đạt 25851 lượt, giảm 2,43% so với tháng trước và tăng 7,59% so với tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước đạt 19170 ngày khách, giảm 2,98% so với tháng trước và tăng 6,21% so với tháng cùng kỳ năm trước; lượt khách du lịch theo tour ước đạt 1383 lượt, giảm 2,12% so với tháng trước và tăng 8,55% so với tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách du lịch theo tour ước đạt 2949 ngày khách, giảm 1,8% so với tháng trước và tăng 8,56% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2017, số lượt khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước đạt 306031 lượt, tăng 10,36% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách do các đơn vị lưu trú phục vụ ước đạt 227497 ngày khách, tăng 9,27%; lượt khách du lịch theo tour ước đạt 12101 lượt, tăng 8,59%; ngày khách du lịch theo tour ước đạt 32810 ngày khách, tăng 8,75%.

6.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 165 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 41 bưu cục, 01 bưu cục hệ 1, có 109 bưu điện văn hóa xã, 6 đại lý chuyển phát, 8 thùng thư công cộng độc lập. Có 94/141 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày.

Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là: 1787 trạm (227 trạm 4G, 756 trạm 3G, 804 trạm 2G).

Ước tính đến 30/9/2017, toàn tỉnh có 575965 thuê bao điện thoại, giảm 3,36% so với cùng thời điểm năm trước. Trong tổng số thuê bao điện thoại hiện có, số thuê bao cố định 17750 thuê bao, giảm 15,33%; số thuê bao di động 558215 thuê bao, giảm 2,93%. Số thuê bao điện thoại phát triển mới 9 tháng năm 2017 là 106098 thuê bao, giảm 23,39% so với cùng kỳ năm 2016. Số thuê bao Internet hiện có là 56000 thuê bao, tăng 22,74% so với cùng thời điểm năm trước. Số thuê bao Internet phát triển mới trong 9 tháng năm 2017 là 10334 thuê bao, tăng 31,9% so với cùng kỳ năm 2016. Số thuê bao di động phát triển mới giảm là do đã triển khai đợt thu hồi SIM kích hoạt sẵn trên kênh phân phối thời gian qua đã đạt được kết quả tích cực.

7. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Trong 9 tháng năm 2017, có những yếu tố làm tăng chỉ số giá tiêu dùng như:  giá dịch vụ y tế điều chỉnh tăng theo bước 2 của Thông tư Liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính; giá xăng, dầu điều chỉnh tăng do giá xăng, dầu thế giới tăng; học phí tăng theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ làm cho giá dịch vụ giáo dục tăng. Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố  làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại như: giá lương thực, thực phẩm và giá dịch vụ bưu chính viễn thông giảm.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2017 tăng 1,57% so với tháng trước; tăng 1,28% so với tháng 12 năm trước và tăng 5,34% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2017, tăng 5,08% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là: lương thực giảm 1,06%; thực phẩm giảm 1,26%; bưu chính viễn thông giảm 1,11%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,67%. Các nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: ăn uống ngoài gia đình tăng 4,19%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,76%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,33%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,93%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,42%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 98,68% (do giá dịch vụ y tế điều chỉnh tăng theo bước 2 của Thông tư Liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính); giao thông tăng 6,48% (Do giá xăng dầu điều chỉnh tăng); giáo dục tăng 2,41%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,05%.

Chỉ số giá vàng tháng 9/2017 tăng 3,33% so với tháng trước; tăng 7,49% so với tháng 12 năm trước và tăng 0,31% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 9 tháng năm 2017 tăng 3,34% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2017 giảm 0,01% so với tháng trước; tăng 0,19% so với tháng 12 năm trước và tăng 1,92% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng năm 2017 tăng 1,71% so với bình quân cùng kỳ năm trước. 

II. VĂN HÓA - XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm

Lực lượng lao động toàn tỉnh ước tính đến 30/9/2017 là 351028 người, chiếm 57,25% dân số và tăng 3,51% so với cùng kỳ năm 2016; trong đó: lực lượng lao động khu vực thành thị 99068 người, chiếm 28,19%; khu vực nông thôn 251960 người, chiếm 71,81%. Lực lượng lao động tăng chủ yếu bổ sung từ lực lượng sinh viên tốt nghiệp từ các tỉnh, thành phố trở về quê hương tìm việc làm.

Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính 342218 người, chiếm 97,49% lực lượng lao động của tỉnh; trong đó: đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 182368 người, chiếm 53,29%; khu vực công nghiệp và xây dựng 54310 người, chiếm 15,87%; khu vực dịch vụ 105540 người, chiếm 30,84%. Tỷ lệ thất nghiệp chung 9 tháng năm 2017 ước tính khoảng 2,51%, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước tính khoảng 3,05% ( năm 2016 là 3,31%).

Trong 9 tháng năm 2017, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề được 5537 người (Cao đẳng 56 người, Trung cấp 240 người, sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng 5241 người). 

Đã tổ chức 14 phiên giao dịch việc làm, có 705 lượt đơn vị đăng ký tham gia tuyển sinh, tuyển dụng (có 273 đơn vị tham gia trực tiếp tại Sàn GDVL). Có 1005 lao động tìm được việc làm và 34 lao động đăng ký học nghề thông qua sàn giao dịch việc làm.

Tư vấn về việc làm, học nghề cho 1639 lượt người, có 70 người tìm được việc làm và 41 người được hổ trợ học nghề.

Chín tháng năm 2017, ước tính toàn tỉnh có 9298 lao động được tạo việc làm mới (4946 lao động làm việc trong tỉnh, 2868 lao động làm việc ngoài tỉnh và 1484 lao động làm việc ở nước ngoài).

Đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho 1623 lao động và đã giải quyết cho 1560 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền chi trợ cấp hơn 15,7 tỷ đồng.

2. Tình hình đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

2.1. Đời sống dân cư

Chín tháng năm 2017, tình hình trong tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn; giá một số nông sản, nhất là thịt lợn hơi xuống thấp làm cho một bộ phận dân cư gặp khó khăn; tình hình thiên tai, dịch bệnh diển biến phức tạp; môi trường biển tuy đã phục hồi nhưng ảnh hưởng vẫn còn nặng nề; thu ngân sách, thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; nhưng các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, chính sách, huy động các nguồn lực để thúc đẩy kinh tế phát triển. Kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng khá, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh có nhiều cải thiện về vật chất và tinh thần; văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện; các chính sách an sinh xã hội được chú trọng; tình hình an ninh, chính trị ổn định; trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo.

Tình hình thiếu đói trong khu vực nông thôn: Chín tháng năm 2017, tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt khá. Sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân được mùa, vụ Hè Thu gặp thời tiết mưa lũ và dịch bệnh nên sản lượng lúa đạt thấp; sản lượng lúa cả 2 vụ chỉ đạt trên 24 vạn tấn, giảm 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Giá bán một số nông sản giảm, nhất là giá bán thịt lợn hơi giảm mạnh làm cho một bộ phận nông dân gặp khó khăn. Tình hình chăn nuôi gặp khó khăn về giá bán, nhưng dịch bệnh ít xảy ra nên sản lượng thịt hơn xuất chuống chỉ giảm 0,52% so với cùng kỳ năm trước. Đánh bắt thủy sản tuy chưa phục hồi như trước khi ô nhiễm môi trường biển xảy ra, nhưng tổng sản lượng thủy sản đã tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước; công tác đền bù thiệt hại do sự cố ô nhiễm môi trường biển đến ngày 20/8/2017 toàn tỉnh đã chi trả 873,67 tỷ đồng, kịp thời giúp người dân bị ảnh hưởng khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống…Với những cố gắng, nỗ lực của người dân; cùng với các biện pháp hổ trợ của các cấp chính quyền nên trong 9 tháng năm 2017 tình hình thiếu đói trong khu vực nông thôn không xảy ra.

Về đời sống của cán bộ, công chức và người lao động trong các doanh nghiệp: Theo Nghị định số 47/2017/NĐ-CP, từ ngày 1/7/2017 mức lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức… tăng từ 1210000 đồng lên 1300000 đồng; Theo Nghị định số 153/2016/NĐ-CP, từ ngày 01/01/2017 mức lương tối thiểu vùng của người lao động trong các doanh nghiệp tăng thêm từ 180000 - 250000 đồng/tháng, đã góp phần ổn định đời sống cán bộ, công chức và người lao động trong các doanh nghiệp.

2.2. Công tác giảm nghèo

Kết quả điều tra hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh cuối năm 2016 là 13,49% (22315 hộ nghèo). Dự kiến, năm 2017 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 1,7% (giảm 2678 hộ nghèo).

Kế hoạch năm 2017, tổng nguồn vốn bố trí thực hiện chính sách, dự án giảm nghèo trên địa bàn tỉnh là 973637 triệu đồng, bao gồm: nguồn vốn thực hiện các chính sách giảm nghèo theo Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ là 864086 triệu đồng; nguồn vốn thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là 84551 triệu đồng; Quỹ “Ngày vì người nghèo” các cấp trong tỉnh 17500 triệu đồng; nguồn vốn huy động khác 7500 triệu đồng.

Trong 9 tháng năm 2017 đã giải ngân được 448523 triệu đồng, đạt 46% so với vốn kế hoạch; bao gồm: nguồn vốn thực hiện các chính sách giảm nghèo theo Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ là 436969 triệu đồng; Quỹ “Ngày vì người nghèo” các cấp trong tỉnh 7300 triệu đồng; nguồn vốn huy động khác 4254 triệu đồng.

Tổng số lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn là 15538 lượt hộ, với tổng số tiền cho vay là 458000 tỷ đồng (trong đó: 2857 lượt hộ nghèo vay vốn với doanh số cho vay 98700 triệu đồng). Tính đến ngày 31/8/2017, tổng số dư nợ vốn vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác là 2271 tỷ đồng.

Từ đầu năm đến nay “Quỹ vì người nghèo” các cấp trong tỉnh đã huy động được 10704 triệu đồng. Trong 9 tháng ban vận động “Quỹ vì người nghèo” các cấp trong tỉnh đã hỗ trợ xây dựng 83 nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo, trị giá 3558 triệu đồng; hỗ trợ sữa chữa nhà cho 1 gia đình, trị giá 20 triệu đồng; hỗ trợ khó khăn đột xuất cho 4627 đối tượng, trị giá 2195 triệu đồng; hỗ trợ cho 790 em học sinh nghèo, trị giá 223,65 triệu đồng; hỗ trợ khám chữa bệnh cho 28 người, trị giá 95 triệu đồng, hỗ trợ khác 95 triệu đồng.

Thực hiện cấp 170957 thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn và người dân ở vùng đặc biệt khó khăn;  tổng kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế là 87,9 tỷ đồng. Ngoài ra, Ban quản lý Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo của tỉnh đã phân bổ 10 tỷ đồng cho các cơ sở y tế của nhà nước nhằm hỗ trợ một phần tiền ăn, tiền đi lại và tiền viện phí cho các đối tượng người nghèo, bảo trợ xã hội và người mắc bệnh hiểm nghèo không đủ khả năng chi trả viện phí.

2.3. Thực hiện chính sách người có công

Theo Quyết định Số 01/QĐ-CTN ngày 03/01/2017 của Chủ tịch Nước về việc tặng quà cho các đối tượng người có công với cách mạng nhân dịp Tết Đinh Dậu năm 2017, có 32720 lượt người có công và thân nhân được nhận quà Chủ tịch Nước với tổng kinh phí trên 6670,4 triệu đồng; thăm và tặng quà 18 gia đình người có công tiêu biểu; chuyển tiền hương khói đến 20054 gia đình Bà mẹ VNAH và thân nhân liệt sĩ với trị giá 2005,4 triệu đồng.

Tổ chức Lễ phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho 108 mẹ vào dịp lễ Quốc khánh 02/9/2017, đưa tổng số Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trên địa bàn tỉnh lên 2550 mẹ, trong đó có 62 mẹ đang còn sống. Đến nay 100% mẹ còn sống được phụng dưỡng suốt đời.

Đến nay đã vận động được 5391 triệu đồng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; với nguồn kinh phí quỹ đền ơn đáp nghĩa và vận động các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh đã triển khai khởi công xây dựng 254 nhà tình nghĩa cho các đối tượng có công với cách mạng với kinh phí 16,52 tỷ đồng.

Đã khởi công 45 công trình tại nghĩa trang liệt sỹ trên địa bàn tỉnh với kinh phí trên 100 tỷ đồng, tặng 123 sổ tiết kiệm tình nghĩa cho người có công với cách mạng với kinh phí 615 triệu đồng.

Trong dịp Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh, Liệt sỹ 27/7, toàn tỉnh đã thăm và tặng quà cho người có công và thân nhân người có công với 40879 suất quà, tổng trị giá 10422,845 triệu đồng (Trong đó: Quà Chủ tịch nước 26268 suất quà với trị giá 5359,8 triệu đồng; quà cấp tỉnh 36 suất với trị giá 43,2 triệu đồng; quà cấp huyện 3141 suất với trị giá 907,750 triệu đồng; quà các đơn vị khác 3980 suất quà với trị giá 2552,890 triệu đồng).

2.4. Bảo trợ xã hội

Trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017, UBND tỉnh đã phân bổ 1486 tấn  gạo (của Chính phủ hỗ trợ) để cứu trợ cho 31363 hộ (99066 nhân khẩu) có hoàn cảnh khó khăn và hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

Các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đã tặng 35430 suất quà cho hộ nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với tổng giá trị 15457 triệu đồng.

Tính đến nay, toàn tỉnh có 31956 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; trong đó: 12973 người khuyết tật; 1452 đối tượng đơn thân nuôi con nhỏ; 210 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 948 người cao tuổi cô đơn; 13275 người từ đủ 80 tuổi trở lên; 19 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 3039 hộ gia đình nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng; 40 gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em không nơi nương tựa.

Các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội được các ngành, các cấp quan tâm triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả, tạo điều kiện cho các đối tượng bảo trợ xã hội vượt qua khó khăn, sống hòa nhập với cộng đồng và xã hội.

3. Giáo dục, đào tạo

Năm học 2016-2017, Ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì ổn định và có bước phát triển mới: Cấp tiểu học có 56169 học sinh, trong đó: số học sinh hoàn thành chương trình lớp học là 55110 em, chiếm 98,11%; số học sinh chưa hoàn thành chương trình là 947 em, chiếm 1,69%. Cấp trung học cơ sở có 42053 học sinh, trong đó: giỏi 22,38%, khá 37,42%, trung bình 36,4%, yếu 3,14%, kém 0,11% (năm học trước tương ứng là: 22,5%, 37,5%, 35,8%, 3,4%, 0,1%). Trung học phổ thông có 22308 học sinh, trong đó: giỏi 11,79%, khá 50,04%, trung bình 33,9%, yếu 4,04%, kém 0,22% (năm học trước tương ứng là: 11,50%, 50,2%, 33,2%, 4,73%, 0,3%).

Năm nay có 10696 học sinh được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học, đạt 99,8%, tăng 0,9% so với năm học trước; có 9502 học sinh đạt tiêu chuẩn tốt nghiệp THCS, đạt 99,7%, tăng 0,08%; có 6906 học sinh tốt nghiệp THPT, đạt 95,9%, tăng 5,04%; có 224 học sinh tốt nghiệp bổ túc THPT, đạt 82,66%, tăng 5,6%.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hóa lớp 12 THPT cấp quốc gia năm học 2016 - 2017, tỉnh Quảng Trị có 54 thí sinh dự thi, có 16 em đạt giải (02 giải nhì, 07 giải ba và 07 giải khuyến khích). Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hóa lớp 12 THPT cấp tỉnh có 1191 thí sinh dự thi, có 676 em đạt giải ( 24 giải nhất, 140 giải nhì, 225 giải ba và 287 giải khuyến khích).

Tổ chức kỳ thi khảo sát năng lực giáo viên ở tất cả các cấp học; kết quả:  mầm non có 841 GV tham gia, có 812 GV đạt từ trung bình trở lên (tỷ lệ 96,55%); cấp Tiểu học có 904 GV tham gia, trong đó đạt 5 điểm trở lên môn Tiếng Việt là 886 GV ( tỷ lệ 95,8%), môn Toán là 883 GV, tỷ lệ 97,7%; cấp THCS có 861 GV tham gia, có 767 GV đạt từ trung bình trở lên (tỷ lệ 89,08%); cấp THPT có 423 GV tham gia, có 378 GV  đạt từ trung bình trở lên (tỷ lệ 89,36%).

Năm học 2016-2017, toàn ngành có 842 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,69%, giảm  0,19% so với năm học 2015-2016; trong đó cấp tiểu học có 28 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,05%; cấp THCS có 300 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,71%; cấp THPT có 514 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,22%.

Số liệu sơ bộ đầu năm học 2017-2018, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 316 trường học, bằng năm học trước (tiểu học 155 trường, THCS 112 trường, PTCS 18 trường, THPT 27 trường, TH 03 trường; Phổ thông 01 trường). Số lớp học có 4568 lớp học, tăng 85 lớp so với năm học trước (tiểu học 2580 lớp, tăng 45 lớp; THCS 1320 lớp, tăng 19 lớp; THPT 668 lớp, tăng 21 lớp). Số học sinh phổ thông có 124610 em, tăng 2,13% (tiểu học 57437 em, tăng 1,96%; THCS 43315 em, tăng 1,87%; THPT 23858 em, tăng 3,03%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 8260 GV, tăng 0,83% (tiểu học 3800 GV, tăng 0,48%; THCS 2915 GV, tăng 1,29%; THPT 1545 GV, tăng 0,85%). Giáo dục mầm non có 166 trường mẫu giáo và mầm non; nhà trẻ có 5425 cháu, tăng 12,13% so với năm học trước; 565 cô nuôi dạy trẻ, tăng 11%; mẫu giáo có 1440 lớp, tăng 19,21%; 34560 học sinh, tăng 4,35%; 2297 giáo viên, tăng 1,77%.

4. Y tế

4.1. Tình hình khám, chữa bệnh

Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố và phát triển. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác y tế. Đến nay toàn tỉnh có 12 Bệnh viện và Trung tâm Y tế  (tỉnh 3, huyện 9), 8 phòng khám đa khoa khu vực, 141 trạm y tế xã, phường, thị trấn; tăng thêm 01 phòng khám so với cùng kỳ năm trước.

Toàn tỉnh có 1790 giường bệnh (không kể trạm xá), tăng 3,17% so với cùng kỳ năm trước. Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về chất lượng chuyên môn; toàn tỉnh có 2853 cán bộ ngành y, giảm 1,55% so với cùng kỳ năm trước (có 574 bác sĩ trở lên, tăng 4,36%); có 397 cán bộ ngành dược, giảm 6,15% (có 65 dược sỹ cao cấp trở lên, tăng 3,17%).

Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Chín tháng  năm 2017 ước có 935214 lượt người khám bệnh, tăng 2,18% so với cùng kỳ năm trước; ước có 99048 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, tăng 7,5%. Trong dịp Lễ Tết, nhất là Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017, Tỉnh đã chỉ đạo các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh trực 24/24 giờ, bảo đảm đủ nhân lực, thuốc, trang thiết bị, phương tiện để xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu tai nạn giao thông, ngộ độc, sinh đẻ trong những ngày Tết, không được từ chối hoặc để chậm trễ trong các trường hợp cấp cứu. Đối với các bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện trong dịp Tết, tổ chức chăm sóc, phục vụ chu đáo người bệnh còn nằm lại điều trị cả về vật chât và tinh thần; đặc biệt, tổ chức thăm hỏi, chúc Tết những người bệnh thuộc diện chính sách và người nghèo.

4.2. Tình hình dịch bệnh

Ngay từ đầu năm tỉnh đã tích cực chủ động triển khai phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm như: sốt xuất huyết, zika, sởi – rubella, sốt rét và một số bệnh có khả năng gây dịch nguy hiểm khác. Hiện nay, tình hình dịch bệnh sốt xuất huyết đang diễn biến phức tạp. Tính từ đầu năm đến nay đã ghi nhận 403 ca sốt xuất huyết tại 9/10 huyện, thị xã, thành phố.

Tháng 9/2017, trên địa bàn tỉnh có 1067 trường hợp mắc bệnh cúm; 21 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip; 57 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng; 25 trường hợp mắc bệnh quai bị; 21 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu; 181 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy; 24 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut. 

Tính chung 9 tháng năm 2017, trên địa bàn tỉnh có 403 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 04 trường hợp mắc bệnh do virut Adedo; 9807 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 13,53% so với cùng kỳ năm trước; 287 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, tăng 5,9%; 471 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 29,39%; 298 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 5,1%; 277 trường hợp mắc bệnh thuỷ đậu, giảm 1,42%; 1418 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 23,1%; 164 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 28,7%. Không có trường hợp tử vong. 

4.3.Tình hình nhiễm HIV/AIDS

Công tác phòng, chống HIV/AIDS được tiếp tục đẩy mạnh. Tỉnh tiếp tục chỉ đạo các cơ sở điều trị bằng methadone cho các đối tượng nghiện các chất dạng thuốc phiện, điều trị ARV cho bệnh nhân AIDS. Ngành y tế phối hợp với các sở, ban ngành, đoàn thể tổ chức giám sát hoạt động ở các cấp; đẩy mạnh công tác truyền thông bằng nhiều hình thức nhằm giúp công tác phòng, chống HIV/AIDS đạt hiệu quả cao hơn. Ngành y tế tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương quản lý tốt các đối tượng nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng để bảo đảm cho người dân tránh lây nhiễm.

Trong tháng 9/2017, phát hiện thêm 02 trường hợp nhiễm HIV/AIDS. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 209 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 39 bà mẹ); trong đó có 64 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 95 người.

4.4.Tình hình ngộ độc thực phẩm

Thời gian qua, công tác thông tin truyền thông ATVSTP được triển khai đa dạng về hình thức và diễn ra sâu rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai với diện rộng bao gồm tất cả các lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, quảng cáo thực phẩm và các ngành hàng thực phẩm. Trong quá trình thanh, kiểm tra đã kết hợp làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức, các quy định của pháp luật về bảo đảm ATVSTP, nhằm nâng cao nhận thức và ý thức bảo đảm ATVSTP cho cộng đồng.

Trong tháng 9/2017, trên địa bàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm nào  xảy ra. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 47 người bị ngộ độc, có 02 người tử vong; 01 ca ngộ độc rượu (không tử vong).

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong 9 tháng năm 2017, các hoạt động văn hóa, thể thao chủ yếu tập trung vào dịp Kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và đón Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017, Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; Kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và 45 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị; Kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sỹ…

Công tác tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao hết sức chu đáo với nhiều hình thức phong phú và đa dạng; các hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức trong 9 tháng năm 2017 như sau:

Kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và đón Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017 với các lễ hội: Hội hoa xuân; Chương trình nghệ thuật đón giao thừa mừng Đảng, mừng Xuân 2017; Chương trình thơ ca mừng đất nước vào Xuân; Hội Báo Xuân Đinh Dậu -2017; Lễ hội chợ đình Bích La (Triệu Phong); Hội cù, Làng vui chơi, làng ca hát (Gio Linh); Đua thuyền (Vĩnh Linh); Hội vật (Hải Lăng)…

Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn với các hoạt động chính: Lễ dâng hương, Lễ dâng hoa, Lễ mít tinh kỷ niệm…

Kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và 45 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị với các hoạt động: Lễ hội “Thống nhất non sông - 2017” với các hoạt động: Lễ Thượng cờ, Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Quảng Trị - Ký ức những dòng sông”, Giải đua thuyền truyền thống và các hoạt động viếng nghĩa trang liệt sĩ, thả hoa đăng trên sông Thạch Hãn, Hội chợ Thương mại và quảng bá du lịch 2017…

Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ, Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với tỉnh Quảng Trị, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa như: Lễ thả hoa đăng, Đại lễ cầu siêu và tặng quà cho các bà mẹ Việt Nam Anh hùng nhằm tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Phối hợp với Đài THVN, tổ chức cầu truyền hình giao lưu nghệ thuật tri ân các Anh hùng Liệt sĩ, Thương binh, bệnh binh và người có công tại 4 điểm cầu: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Trị và Thái Nguyên gắn với Kỷ niệm 45 năm sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972…

Tham gia Hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” tại Nghệ An đạt Huy chương vàng toàn đoàn (02HCV, 02 HCB); Tổ chức chương trình nghệ thuật “Anh Ba Duẩn”; Tổ chức triển lãm ảnh về chủ đề “ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”…

Tổ chức tốt công tác khánh tiết, đón, phục vụ du khách và nhân dân đến tham quan, thăm viếng, dâng hương tại các di tích.

Thể thao quần chúng ngày càng phát triển sâu rộng, được các cấp, các ngành và đông đảo nhân dân quan tâm, hưởng ứng. Tỉ lệ người tập TDTT thường xuyên đạt 30,7 %; tỉ lệ gia đình thể thao đạt 25,5%; có 771 câu lạc bộ và điểm tập TDTT trên địa bàn tỉnh, có 02 liên đoàn và hiệp hội. Công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học được chú trọng, chất lượng phong trào được nâng lên rõ rệt: 100% các trường THCS, THPT tổ chức giảng dạy nội khoá, 98% số trường tổ chức giảng dạy ngoại khoá có nề nếp…

Tổ chức thành công nhiều giải thể thao như: giải Bóng chuyền - Cầu lông Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh năm 2017; Giải Bóng đá nam U11 Cúp QRTV – Bình Điền Quảng Trị lần thứ III, năm 2017; Giải Việt dã tỉnh Quảng Trị năm 2017 “Cùng Sacombank chạy vì sức khỏe cộng đồng”; Giải Bóng đá báo Quảng Trị năm 2017 – Cúp Trường Sơn…

Thể thao người khuyết tật của Quảng Trị tiếp tục giữ vững vị trí thứ 3 tại giải Thể thao Người khuyết tật toàn quốc năm 2017, với thành tích đạt được 60 huy chương (21HCV, 27HCB và 12HCĐ).

Thể thao thành tích cao được quan tâm, duy trì tập luyện thường xuyên các lớp năng khiếu, đội tuyển tỉnh và đội tuyển trẻ. Tổng số VĐV được đào tạo tại Trung tâm là: 89 VĐV tập luyện 8 môn thể thao gồm: Điền kinh, Cầu lông, Bơi lội, Karatedo, Rowning, Canoeing, Cử tạ và Vật (Trong đó: 34 VĐV tuyển Tỉnh, 18 VĐV tuyển Trẻ và 37 VĐV Năng khiếu). Có 07 VĐV được triệu tập vào đội tuyển và đội tuyển trẻ quốc gia, 04 VĐV kiện tướng và 05 VĐV cấp I quốc gia, 09 VĐV được gửi đi đào tạo tại các Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia.

Chín tháng năm 2017, các đội tuyển đã tham gia thi đấu 20 giải thể thao trong nước và khu vực, đạt 58 huy chương các loại (12HCV, 16HCB và 30HCĐ). Đặc biệt, tham gia Giải vô địch và Vô địch trẻ Đông Nam Á môn Canoeing đạt 02 HCV, 02 HCB, 01 HCĐ; Giải vô địch Châu Á môn Rowing đạt 01 HCV, 01 HCĐ.

Phối hợp với Tổng cục Thể dục Thể thao, Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam tổ chức thành công Giải Bóng chuyền vô địch trẻ quốc gia năm 2017.

Chỉ đạo tổ chức tốt Đại hội TDTT cấp cơ sở tiến tới Đại hội TDTT tỉnh Quảng Trị lần thứ VII, năm 2017-2018; đến nay đã có 140/141 xã, phường, thị trấn tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp cơ sở, đạt 99%; 4/10 huyện, thị xã tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp huyện; Đại hội TDTT cấp tỉnh đã tổ chức thành công 5 môn thi đấu.

6. Tai nạn giao thông

Trong tháng (Từ 16/8 đến 15/9/2017), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, làm chết 07 người, bị thương 14 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông giảm 50% (-12 vụ), số người chết giảm 30% (-03 người), số người bị thương giảm 50% (-14 người).

Tính chung 9 tháng năm 2017 (từ 16/12/2016 đến 15/9/2017), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 154 vụ tai nạn giao thông, làm chết 82 người, bị thương 143 người; so với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 4,3% (-07 vụ), số người chết tăng 12,3% (+09 người), số người bị thương giảm 15,9% (-27 người).

Toàn bộ số vụ tai nạn giao thông đều xảy ra trên đường bộ.

7. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

7.1. Tình hình cháy nổ

Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về PCCC với nhiều nội dung, hình thức phong phú phù hợp với từng đối tượng cụ thể; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PCCC & CNCH; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về PCCC của chính quyền các cấp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và tự kiểm tra về việc thực hiện các quy định về PCCC; duy trì công tác thường trực chiến đấu, sẵn sàng chữa cháy kịp thời, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác PCCC trong tình hình mới theo phương châm 4 tại chỗ.

Tháng 9/2017, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 03 vụ cháy; giá trị tài sản thiệt hại 4131 triệu đồng.

Tính chung 9 tháng năm 2017, trên địa bàn tỉnh xảy ra 45 vụ cháy, tăng 10 vụ so với cùng kỳ năm trước; làm 02 người chết và 05 người bị thương; tổng giá trị tài sản thiệt hại 12235 triệu đồng

7.2.Bảo vệ môi trường

Trong 9 tháng năm 2017, hưởng ứng ngày môi trường thế giới, tại các địa phương trên địa bàn tỉnh, đã tổ chức các hoạt động như: Lễ mít tinh hưởng ứng; ra quân thu gom rác thải, làm vệ sinh môi trường trên địa bàn dân cư, trồng cây xanh, khơi thông cống rãnh, kênh mương; tăng cường tuyên truyền, vận động người dân nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các sản phẩm thân thiện với môi trường; phát động và duy trì các phong trào bảo vệ môi trường tại cơ sở, cộng đồng dân cư…

Ngoài ra, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội.

Trong tháng 9 không phát hiện vụ vi phạm môi trường nào xảy ra. Tính chung 9 tháng năm 2017, phát hiện 01 vụ vi phạm môi trường tại Chi nhánh Công ty cổ phần quốc tế Phong Phú (huyện Hải Lăng); số tiền xử phạt 30 triệu đồng.

8. Tình hình thiệt hại do thiên tai

Trong tháng 9 từ ngày 14-15, do ảnh hưởng của bảo số 10, trên địa bàn tỉnh có gió giật mạnh, lốc xoáy, mưa to đến rất to trên diện rộng gây thiệt hại về người và tài sản như sau:

- Về người: 12 người bị thương.

- Về nhà dân: tổng số nhà bị thiệt hại 2540 nhà.

- Về nông, lâm nghiệp và thủy sản: thiệt hại diện tích lúa 226 ha, cây hàng năm khác 1968 ha, cây lâu năm 4336,2 ha, cây ăn quả 416 ha, gia súc bị chết 89 con, gia cầm bị chết 1620 con, rừng sản xuất 3557 ha, cây bóng mát, cây xanh đô thị bị gãy đổ 20435 cây, cây cảnh 661 chậu, cá 16,7 ha, tôm 38,5 ha…

- Về thủy lợi: sạt lở hệ thống đê điều 05 tuyến với chiều dài 2300 m và hư hỏng 02 cống điều tiết; sạt lở gờ chắn ta luy, bờ kè 320 m; sạt lở bờ sông 3800 m;  hệ thống thủy nông của tỉnh bị hư hỏng nặng; kênh mương nội đồng bị sạt lở, bồi lấp 33,1 km.

- Về Công nghiệp: dây điện hạ thế bị đứt 7460 m; trụ điện hạ thế bị gãy 21 cột.

- Về giao thông: Trên Quốc lộ 9, 9D, 15C, 49C mặt đường láng nhựa bi hư hỏng 73367 m2, rảnh dọc bị lấp 1430 m3 và nhiều cầu bị hư hỏng. Trên Tỉnh lộ bị bùn lấp mặt đường 75m3, rảnh dọc bị lấp 1712 m2, mặt đường láng nhựa bị hư hỏng 59763 m2, cây bị gảy đổ 745 cây. Huyện lộ và giao thông nông thôn bị sạt lở 33550 m, cầu bị hư hỏng 02 cái, đường giao thông đi các xã ở huyện Hướng Hóa bị sạt lở, hư hỏng.

- Về thông tin liên lạc: trụ cáp viễn thông bị gãy 12 trụ, xiêu vẹo 02 trụ.

- Về giáo dục: 57 điểm trường học bị tốc mái, hư hỏng.

- Về Văn hóa: khán đài A sân vận động tỉnh bị tốc mái, hệ thống loa phát bị hư hỏng hoàn toàn; tường rào Trung tâm huấn luyện và thi đấu TDTT tỉnh bị sập 20 m; 40 cây xanh ở các điểm di tích bị gãy, đổ; 62 công trình văn hóa nhỏ ở các huyện, thị xã, thành phố bị hư hỏng một phần; Nhà Văn hóa Trung tâm, nhà thi đấu huyện đảo Cồn Cỏ bị hư hỏng; Hệ thống Đài truyền thanh bị hư hỏng nặng.

- Về công trình khác: lều, quán, công trình phụ bị hư hỏng 134 cái; Trụ sở cơ quan bị tốc mái 36 cái…

Ước giá trị thiệt hại do bảo số 10 gây ra trên 826,7 tỷ đồng.

* Công tác khắc phục hậu quả:

- Trong ngày 15/9/2017, các đoàn công tác của Thường vụ Tỉnh ủy, Lãnh đạo UBND tỉnh, Thường trực Ban Chỉ huy PCTT & TKCN tỉnh đã về các địa bàn xung yếu để tiếp tục chỉ đạo công tác phòng, chống, ứng cứu, khắc phục và thăm hỏi động viên nhân dân các vùng bị ảnh hưởng bão, mưa lũ.

- Chỉ đạo các địa phương, đơn vị nhanh chóng huy động lực lượng vệ sinh môi trường, khắc phục các điểm sạt lở, đảm bảo giao thông đi lại thông suốt sau bão, mưa lũ; khắc phục nhanh chóng các công trình cơ sở hạ tầng bị thiệt hại.

- Nhanh chóng khắc phục sự cố mạng lưới điện, hệ thống thông tin liên lạc.

- Động viên nhân dân sửa chữa, lợp lại nhà bị hư hỏng, tốc mái. Giao chính quyền cấp cơ sở chịu trách nhiệm huy động lực lượng, phương tiện giúp đở các hộ gia đình bị thiệt hại nặng về nhà và các hộ thuộc đối tượng dễ bị tổn thương (hộ gia đình neo đơn, tàn tật…) bị thiệt hại về nhà ở; bố trí nơi ở tạm thời cho các gia đình có nhà bị hư hỏng nặng tạm thời không có nơi cư trú.

- Chỉ đạo công tác huy động phương tiện, lực lượng bơm nước tiêu úng để chống úng cho các diện tích bị ngập, giảm thiệt hại.

- UBND tỉnh, Ban Chỉ huy PCTT & TKCN tỉnh tiếp tục chỉ đạo các địa phương, các cấp, các ngành tiếp tục bám sát cơ sở, tập trung chỉ đạo việc cứu trợ, khắc phục các thiệt hại do bão, mưa lũ gây ra, nhanh chóng ổn định đời sống người dân và làm tốt việc cứu trợ, hỗ trợ cho các gia đình bị thiệt hại.

Tính chung từ đầu năm đến nay thiên tai trên địa bàn tỉnh đã làm 01 người chết (do sét đánh); 18 người bị thương; 05 thuyền bị chìm (trong đó có 01 thuyền 460 CV); trên 4163 nhà bị thiệt hại; 66 điểm trường, 11 cơ sở và trạm y tế, 82 trụ sở cơ quan và công trình văn hóa bị thiệt hại; 24 cơ sở chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, chợ cá bị hư hỏng; 01 công trình nước sạch bị cuốn trôi; trên 3000m kè, đê bị sạt lở và hư hỏng; trên 16,1 km kênh mương nội đồng bị hư hỏng; trên 3988,5 ha lúa, 4770,8 ha hoa màu và cây hàng năm, 5385,34 ha cây lâu năm (cao su, hồ tiêu), 4444 ha rừng trồng, 725 ha cây ăn quả bị thiệt hại; Số gia súc bị chết 150 con, diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại 87,7 ha nuôi cá, 59,5 ha nuôi tôm... cùng nhiều tài sản và công trình phúc lợi, văn hóa khác bị thiệt hại. Tổng giá trị thiệt hại ước tính trên 1006 tỷ đồng.

            Trên đây là tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2017 tỉnh Quảng Trị./.

CỤC THỐNG KÊ TỈNH QUẢNG TRỊ


Hoạt động trong ngành
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG NĂM 2023 - 05/03/2024
CÔNG KHAI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 2024 - 28/02/2024
CÔNG KHAI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH - 18/09/2023
Hoạt động của nữ công Cục Thống kê Quảng Trị chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2022 - 19/10/2022
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2022 - 01/06/2022
THÔNG BÁO KẾT LUẬN THANH TRA - 25/05/2022
HỘI NGHỊ THỐNG KÊ TOÀN QUỐC - 18/03/2022
KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY THÀNH LẬP NGÀNH THỐNG KÊ (06/5/1946-06/5/2021) - 25/04/2021
ĐIỀU TRA NÔNG THÔN NÔNG NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020 - 30/06/2020
TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC NĂM 2019 - 11/04/2019
Ý kiến kết luận của chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính tại buổi làm việc với Cục Thống kê - 30/08/2018
Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị về việc chuẩn bị Tổng điều tra Dân số nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019 trên địa bàn tỉnh - 23/08/2018
Lễ công bố quyết định thành lập Chi đoàn Cục Thống kê Quảng Trị - 14/12/2017
Quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc Tổng điều tra kinh tế 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị - 16/03/2017
Thông báo lịch thi tuyển CC và triệu tập thí sinh 2017 - 23/02/2017
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2014 - 05/03/2014
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2014 - 23/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2013 - 02/01/2014
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2013 - 01/11/2013
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2013 - 02/10/2013
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2013 - 03/09/2013
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2013 - 01/08/2013
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2013 - 01/07/2013
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2013 - 05/06/2013
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2013 - 07/05/2013
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2013 - 02/04/2013
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2012 - 28/12/2012
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2012 - 30/11/2012
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2012 - 02/11/2012
Kỷ niệm ngày thống kê thế giới - 18/10/2012
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2012 - 01/10/2012
Hội nghị công tác thống kê tổng hợp năm 2012 - 16/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2012 - 01/08/2012
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2012 - 02/07/2012
Hội thảo góp ý Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia - 15/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2012 - 04/06/2012
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2012 - 02/05/2012
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2012 - 30/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2012 - 02/03/2012
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2012 - 03/02/2012
Báo cáo tổng kết công tác 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 do Ông: Nguyễn Thanh Nghị - Phó cục trưởng trình bày tại Hội nghị tổng kết ngành năm 2011 - 17/01/2012
Báo cáo tổng kết công tác thi đua - khen thưởng năm 2011 do Ông: Trần Ánh Dương - Phó cục trưởng trình bày trước Hội nghị Tổng kết ngành - 17/01/2012
Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Thức, Tổng cục trưởng, tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2012 của ngành Thống kê - 11/01/2012
Hoạt động trong ngành tháng 12 năm 2011 - 30/12/2011
Hội nghị công bố kết quả điều tra đánh giá tình hình trẻ em và phụ nữ 2010-2011 - 19/12/2011
Hoạt động trong ngành tháng 11 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 10 năm 2011 - 28/11/2011
Hoạt động trong ngành tháng 9 năm 2011 - 30/09/2011
Hoạt động trong ngành tháng 8 năm 2011 - 25/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 7 năm 2011 - 24/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 6 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 5 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 4 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 3 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 2 năm 2011 - 22/08/2011
Hoạt động trong ngành tháng 1 năm 2011 - 22/08/2011
Công báo chính phủ Tổng cục Thống kê Niên giám Thống kê Gửi báo cáo Thống kê
Mạng riêng của ngành dieu tra doanh nghiep 2024 Biểu chế độ báo cáo Cục Thống kê tỉnh năm 2013 Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị